Dòng chảy tư tưởng nhân quyền từ Bộ luật Hồng Đức đến Tuyên ngôn Độc lập
Theo TS sử học - luật sư Phan Đăng Thanh, trong bản Tuyên ngôn Độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói lên khát vọng ngàn đời của dân tộc: Độc lập, chủ quyền của đất nước và đảm bảo về quyền con người.
Những ngày này, cả nước đang sống trong không khí vui mừng, phấn khởi hướng tới ngày Tết Độc lập. Nhìn lại chặng đường 80 năm kể từ ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập tại Quảng trường Ba Đình (2-9-1945–2-9-2025), mỗi người dân Việt Nam lại bồi hồi xúc động khi nghĩ về những giá trị nền tảng đã làm nên một quốc gia độc lập, luôn giữ được quyền tự quyết.
Trong không khí ấy, chúng tôi đã có cuộc trao đổi với TS sử học - luật sư (LS) Phan Đăng Thanh, người đã dành hơn 1/4 thế kỷ tâm huyết để nghiên cứu và “giải mã” những di sản pháp lý của tiền nhân. Từ kết quả nghiên cứu ấy, ông và LS Trương Thị Hòa (vợ ông) đã cho ra đời cuốn sách Nhân quyền của người Việt từ Bộ luật Hồng Đức đến Bộ luật Gia Long. Công trình nghiên cứu sử học có nhiều phát kiến mới này còn là lời khẳng định: Tư tưởng nhân quyền đã chảy trong huyết mạch của dân tộc Việt từ hàng ngàn năm trước.

Người dân chào đón chiến sĩ tham gia tổng hợp luyện diễu binh, diễu hành hướng đến đại lễ 2-9. Ảnh: VGP
Quyền dân tộc tự quyết - nền tảng phát huy các quyền cá nhân
. Phóng viên: Thưa TS-LS Phan Đăng Thanh, trong bản Tuyên ngôn Độc lập mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc tại vườn hoa Ba Đình vào sáng 2-9-1945 có nhắc đến những khái niệm quan trọng về nhân quyền. Có phải đây là thời điểm khái niệm nhân quyền bắt đầu xuất hiện phổ biến ở nước ta?
+ TS-LS Phan Đăng Thanh: Nhiều người thường mặc định rằng nhân quyền là thuật ngữ, khái niệm du nhập từ phương Tây, Việt Nam không phải là nơi sản sinh ra thuật ngữ này. Về mặt thuật ngữ có thể nói là như thế. Tuy nhiên, dân tộc Việt Nam đã sống gần với chính nội hàm của khái niệm này từ rất lâu đời.
Khi nói về nhân quyền, người ta thường bắt đầu bằng các quyền dân sự, chính trị của cá nhân. Nhưng tôi cho rằng đối với một dân tộc luôn phải đối mặt với các thế lực ngoại xâm, quyền đầu tiên, nền tảng và bao trùm nhất chính là quyền dân tộc tự quyết. Đó là quyền tự định đoạt vận mệnh của dân tộc mình, tự lựa chọn thể chế chính trị, con đường phát triển kinh tế - xã hội mà không có sự can thiệp từ bên ngoài. Nguyên tắc này, dù chỉ được chính thức ghi nhận trong Hiến chương Liên hợp quốc năm 1945 và các Công ước quốc tế năm 1966 nhưng nó lại được thể hiện xuyên suốt trong quá trình dựng nước và giữ nước của ông cha ta từ ngàn năm trước.

TS-LS Phan Đăng Thanh và LS Trương Thị Hòa tại buổi ra mắt sách sáng 19-8-2023. Ảnh: DI LINH
. Cụ thể quyền dân tộc tự quyết ấy biểu hiện thế nào, thưa ông?
+ Dòng chảy lịch sử đã chứng minh khi nhân loại chưa có khái niệm về quyền dân tộc tự quyết thì ngay từ thời cổ trung đại, tổ tiên người Việt đã sớm thực hành tư tưởng dân tộc tự quyết một cách vẻ vang, oanh liệt.
Ngay từ trước Công nguyên, liên quân Âu Việt và Lạc Việt dưới sự lãnh đạo của Thục Phán đã hiên ngang chặn đứng vó ngựa quân Tần. Ý chí không khuất phục ấy tiếp tục bùng cháy trong cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng năm 40, quét sạch bóng quân thù, xưng vương và xây dựng nền tự chủ. Rồi đến ngọn lửa kháng chiến của bà Triệu chống giặc Ngô năm 248, đến việc Lý Bí dựng nên Nhà nước Vạn Xuân năm 542 và đỉnh cao là chiến thắng Bạch Đằng lừng lẫy năm 938 của Ngô Quyền, chính thức đóng lại 1.000 năm Bắc thuộc, mở ra một kỷ nguyên độc lập lâu dài cho dân tộc.
Tinh thần tự quyết ấy không chỉ thể hiện trên chiến trường, mà còn được khẳng định bằng cốt cách, bằng văn hóa và bằng pháp luật. Ở thế kỷ 11, giữa lúc non sông bị quân Tống uy hiếp, trên dòng sông Như Nguyệt đã vang lên lời thơ thần Nam quốc sơn hà của Lý Thường Kiệt như một bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc. Đến thế kỷ 13, ba lần vó ngựa Mông - Nguyên, đội quân đã chinh phạt khắp lục địa Á - Âu, đều phải tan tác trước ý chí của một dân tộc nhỏ bé nhưng kiên cường, một ý chí được kết tinh từ Hội nghị Diên Hồng, nơi tiếng hô “đánh” của các bô lão đã trở thành biểu tượng cho sức mạnh toàn dân…
Dòng chảy nhân quyền ở Việt Nam bắt nguồn từ chính lòng yêu nước, từ tinh thần tự quyết, từ văn hóa trọng tình nghĩa của người Việt. Nó đã được ghi lại trong các bộ luật cổ và giờ đây tiếp tục được khẳng định và bảo vệ bởi Hiến pháp của nước ta.
. Ở giai đoạn ông vừa nêu, dường như quyền dân tộc tự quyết đã hun đúc nên tinh thần độc lập, tự chủ của đất nước, nhất là khi đối diện với các thế lực ngoại bang?
+ Đó là tiền đề, tinh thần tự quyết đạt đến độ chín muồi và được thể chế hóa một cách rực rỡ nhất dưới triều Hậu Lê (1428-1789), đặc biệt là thời kỳ của vua Lê Thánh Tông.
Sau 10 năm kháng chiến gian khổ để giải phóng dân tộc khỏi ách đô hộ của nhà Minh, nhà Hậu Lê đã xây dựng một quốc gia Đại Việt hùng mạnh và tự chủ. Các vị vua xưng hoàng đế, tự đúc niên hiệu, tiền tệ, khẳng định vị thế ngang hàng với phương Bắc chứ không phải là một nước chư hầu.
Trong bối cảnh tự chủ đó, Bộ luật Hồng Đức (Quốc triều hình luật) đã ra đời, trở thành một công trình lập pháp vĩ đại, một biểu tượng sáng ngời cho nguyên tắc dân tộc tự quyết trong lĩnh vực pháp lý. Nó là minh chứng cho tinh thần sáng tạo, tự chủ, thể hiện bản sắc Việt Nam.
Có thể nói chính từ nền tảng vững chắc của quyền dân tộc tự quyết, các quyền con người cụ thể mới có điều kiện để phát huy.
Cuốn sách Nhân quyền của người Việt từ Bộ luật Hồng Đức đến Bộ luật Gia Long của TS-LS Phan Đăng Thanh và ThS-LS Trương Thị Hòa sau tái bản lần thứ nhất gồm năm chương.
Hai chương đầu giới thiệu về lịch sử ra đời, nội dung và giá trị của Bộ luật Hồng Đức. Trong đó, hai tác giả chỉ rõ Bộ luật Hồng Đức là bộ luật Việt Nam đầu tiên đề cao nhân quyền với 25 quyền như quyền sống, quyền bình đẳng, quyền hôn nhân tự nguyện…
Cuốn sách Nhân quyền của người Việt từ Bộ luật Hồng Đức đến Bộ luật Gia Long. Ảnh: DI LINH
Ba chương tiếp theo nói về Bộ luật Gia Long của nhà Nguyễn. Trong đó, hai tác giả chỉ ra Bộ luật Gia Long đã kế thừa và phát triển giá trị nhân quyền của Bộ luật Hồng Đức như thế nào qua những phân tích và điều luật cụ thể, với 25 loại quyền.
Hai tác giả nhận định: Bộ luật Hồng Đức và Bộ luật Gia Long đều xứng đáng là cột mốc lịch sử, một đóng góp quan trọng của dân tộc Việt Nam vào giá trị nhân quyền cao quý của nhân loại.
Nhân quyền - những lẽ phải không ai chối cãi được
. Thưa ông, quyền dân tộc tự quyết chỉ là một trong những quyền quan trọng cấu thành nên nhân quyền. Vậy còn quyền của mỗi cá nhân thì thế nào, thưa ông?
+ Nếu quyền dân tộc tự quyết là quyền của cộng đồng thì quyền được sống là quyền cơ bản, thiêng liêng và bất khả xâm phạm của mỗi cá nhân. Mở đầu bản Tuyên ngôn Độc lập ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Người khẳng định: “Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được”.

TS-LS Phan Đăng Thanh tặng sách cho LS Trương Trọng Nghĩa (bìa trái) và các phóng viên báo Pháp Luật TP.HCM đạt giải Báo chí Thành phố năm 2015. Ảnh: HOÀNG GIANG
Suốt quá trình nghiên cứu, tôi phát hiện điều đáng kinh ngạc là những “lẽ phải” ấy, dù được diễn đạt bằng ngôn từ khác, đã tồn tại trong pháp luật của người Việt từ xa xưa. Bộ luật Hồng Đức ra đời vào thế kỷ 15 đã có những quy định rất cụ thể và nghiêm khắc để bảo vệ quyền sống. Đáng chú ý, sinh mạng con người được pháp luật bảo vệ ngay từ khi còn là một bào thai.
Cụ thể, Bộ luật Hồng Đức nghiêm cấm hành vi phá thai. Điều luật quy định rõ kẻ đem thuốc cho người khác phá thai, hay chính người phụ nữ xin thuốc để phá thai đều bị xử tội đồ (một hình phạt khổ sai nặng). Đặc biệt, nếu việc phá thai dẫn đến chết người thì kẻ cho thuốc sẽ bị khép vào tội giết người và phải chịu hình phạt tương ứng. Quy định này cho thấy một tư duy pháp lý vô cùng nhân văn và tiến bộ, thừa nhận sự sống của một sinh linh ngay cả khi chưa chào đời, một vấn đề mà đến nay vẫn còn gây tranh cãi ở nhiều quốc gia trên thế giới.
Sự thiêng liêng của quyền sống còn được thể hiện qua một quy định đặc biệt khác. Thông thường, luật pháp phong kiến có chính sách khoan hồng cho những kẻ phạm tội tự thú trước khi bị phát giác, thường là sẽ được miễn tội. Tuy nhiên, Bộ luật Hồng Đức quy định một ngoại lệ sắt đá: Đối với tội giết người, dù có tự thú cũng “không theo luật này”, tức là không được tha miễn. Kẻ tước đoạt mạng sống của người khác không chỉ phải chịu hình phạt của triều đình mà còn phải thực hiện trách nhiệm bồi thường tính mạng cho gia đình nạn nhân.
Sang đến Bộ luật Gia Long (khoảng hơn ba thế kỷ sau), những giá trị nhân quyền của Bộ luật Hồng Đức không chỉ được kế thừa mà còn phát triển một số quyền như quyền thừa kế, quyền kiện tụng và được xét xử công bằng, quyền được biết… theo hướng tiến bộ hơn.

TS-LS Phan Đăng Thanh (bìa phải) trong một buổi gặp mặt giao lưu với bạn đọc trong khuôn khổ chương trình đố vui pháp luật "À ra thế!" của báo Pháp Luật TP.HCM. (Kế LS Thanh là ông Phạm Phú Tâm, nguyên Tổng Biên tập báo Pháp Luật TP.HCM). Ảnh: HTD
. Theo ông, những quyền này được kế thừa ra sao ở hệ thống pháp luật hiện đại ngày nay?
+ Hiến pháp năm 2013 đã dành trọn Chương II để quy định về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, trong đó khẳng định các quyền con người được công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm.
Kế thừa tinh thần coi trọng mạng sống, pháp luật hình sự Việt Nam đã có những bước tiến vượt bậc trong việc thu hẹp dần phạm vi áp dụng hình phạt tử hình.
Nếu BLHS năm 1985 có 44 tội có hình phạt tử hình, đến BLHS năm 1999 còn 29 tội có hình phạt tử hình, BLHS sửa đổi năm 2009 còn 22 tội có hình phạt tử hình, đến BLHS năm 2015 chỉ còn 18 tội có hình phạt tử hình.
Việc loại bỏ hình phạt tử hình ở 8 tội danh, bao gồm cả những tội an ninh quốc gia như hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân, gián điệp, đã thể hiện rõ xu hướng nhân đạo và sự tuân thủ các cam kết quốc tế của Việt Nam, đặc biệt là Công ước về các quyền dân sự và chính trị.
Khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập, Người không chỉ viện dẫn những chân lý của thế giới. Người còn đang nói lên khát vọng ngàn đời của dân tộc, một khát vọng đã được cha ông ta thể chế hóa thành luật. Dòng chảy nhân quyền ở Việt Nam bắt nguồn từ chính lòng yêu nước, từ tinh thần tự quyết, từ văn hóa trọng tình nghĩa của người Việt. Nó đã được ghi lại trong các bộ luật cổ và giờ đây tiếp tục được khẳng định và bảo vệ bởi Hiến pháp của nước CHXHCN Việt Nam.
. Xin cảm ơn ông.•
Sự kế thừa và phát triển tư tưởng nhân quyền của người Việt
Trong một thời gian dài, Bộ luật Gia Long (Hoàng Việt luật lệ) của triều Nguyễn thường bị đánh giá là một bước lùi so với Bộ luật Hồng Đức, bị cho là sao chép bộ luật của nhà Thanh và mang tư tưởng bảo thủ, hà khắc. Tuy nhiên, qua nghiên cứu, tôi cho rằng sự thật ngược lại.
TS-LS Phan Đăng Thanh. Ảnh: DI LINH
Trải qua mấy ngàn năm lịch sử, từ khi loài người chưa có khái niệm về “quyền con người” thì tổ tiên người Việt đã từng bước manh nha quyền con người rất sớm. Đỉnh cao đầu tiên chính là Bộ luật Hồng Đức, có thể coi như một “Bộ luật về nhân quyền” đầu tiên của người Việt. Nó hệ thống hóa một cách toàn diện, phong phú các quyền, từ quyền sống, quyền bình đẳng đến quyền của phụ nữ, trẻ em, người cao tuổi, người khuyết tật, quyền tư hữu, quyền học tập, quyền được xét xử công bằng... ”.
Ra đời sau đó, thay vì xóa bỏ, Bộ luật Gia Long đã bảo lưu, kế thừa và thậm chí phát triển những giá trị nhân quyền của Bộ luật Hồng Đức ở một mức độ sáng tạo và hoàn thiện hơn.
Bằng chứng rõ nét nhất nằm ở các quy định bảo vệ những nhóm yếu thế trong xã hội, đặc biệt là phụ nữ. Nếu Bộ luật Hồng Đức đã rất tiến bộ khi bảo vệ nhân phẩm và quyền lợi của phụ nữ thì Bộ luật Gia Long còn đi xa hơn.
Ví dụ, bộ luật này quy định rất nhân đạo rằng phụ nữ có thai nếu phạm tội thì phải chờ sau khi sinh con đủ 100 ngày mới được đưa ra khảo xét, tra hỏi. Quy định này nhằm bảo vệ sức khỏe cho cả người mẹ và đứa trẻ sơ sinh. Hay đối với tội cướp bóc, bắt phụ nữ, con gái đem bán làm nô tì, Bộ luật Gia Long quy định hình phạt cực kỳ nghiêm khắc là “xử trảm ngay”, thể hiện sự quyết liệt trong việc bảo vệ nhân phẩm và tự do thân thể của phụ nữ.
Đặc biệt, điểm sáng tạo và tiến bộ vượt bậc của Bộ luật Gia Long so với Bộ luật Hồng Đức nằm ở quyền thừa kế di sản. Cụ thể, Bộ luật Hồng Đức tuy đã cho phép con gái hưởng thừa kế nhưng vẫn có sự phân biệt, theo đó phần tài sản của con vợ lẽ, nàng hầu thì ít hơn phần của con vợ cả. Nhưng Bộ luật Gia Long đã điều chỉnh sự bất bình đẳng này. Luật quy định rất rõ ràng, bất luận là con của vợ cả, con của vợ lẽ hay con của nàng hầu, tất cả đều được phân chia gia tài bằng nhau. Đây là một bước tiến lớn về tư tưởng bình đẳng, công bằng, cho thấy sự phát triển trong tư duy pháp lý của các nhà làm luật triều Nguyễn.
Như vậy, từ Bộ luật Hồng Đức đến Bộ luật Gia Long là một dòng chảy liên tục, không hề đứt gãy. Đó là quá trình các giá trị nhân quyền nội sinh của dân tộc được đúc kết, hệ thống hóa và ngày càng hoàn thiện. Hai bộ cổ luật vĩ đại này, dù ra đời cách đây hàng trăm năm, vẫn chứa đựng những tư tưởng phù hợp với pháp luật hiện đại của thế giới, với Tuyên ngôn Quốc tế nhân quyền và các công ước quốc tế.