Dự thảo Luật: 'Tài sản số là tài sản theo pháp luật dân sự hiện hành'

Theo dự thảo Luật Công nghiệp Công nghệ số trình Quốc hội chiều nay, tài sản số được xác định là tài sản theo pháp luật dân sự hiện hành, do vậy có thể được sử dụng cho mục đích trao đổi hoặc đầu tư.

Chiều 9/5, tiếp tục chương trình kỳ họp thứ 9, Quốc hội nghe báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật Công nghiệp Công nghệ số và thảo luận ở hội trường về một số nội dung còn ý kiến khác nhau của dự thảo Luật.

Quyền sở hữu trí tuệ không áp dụng đối với AI

Về nội dung quản lý trí tuệ nhân tạo (AI) trong dự thảo Luật Công nghiệp Công nghệ số, Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học Công nghệ và Môi trường Quốc hội Lê Quang Huy cho biết, có ý kiến đề nghị dự thảo Luật cần có quy định về sở hữu trí tuệ đối với sản phẩm sử dụng AI. Theo đó, UBTVQH nhận thấy pháp luật về sở hữu trí tuệ của Việt Nam quy định quyền sở hữu trí tuệ chỉ có thể thuộc về tổ chức, cá nhân (con người) sở hữu hoặc trực tiếp sáng tạo ra một phần hoặc toàn bộ tác phẩm, sáng chế,… chứ không áp dụng đối với AI.

"Hiện nay, Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) và nhiều quốc gia vẫn đang tiếp tục nghiên cứu vấn đề về quyền sở hữu trí tuệ đối với các sản phẩm do AI tạo ra, chưa chính thức luật hóa hoặc đưa vào các công ước quốc tế. Do đó, UBTVQH sẽ chỉ đạo nghiên cứu sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện quy định về vấn đề nêu trên trong Luật Sở hữu trí tuệ vào thời điểm phù hợp," ông Lê Quang Huy giải trình.

Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học Công nghệ và Môi trường Lê Quang Huy. Ảnh: Quốc hội

Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học Công nghệ và Môi trường Lê Quang Huy. Ảnh: Quốc hội

Bên cạnh đó, có ý kiến đề nghị bổ sung quy định về các hoạt động AI bị cấm, trong đó cấm hành vi đưa ra thị trường, đưa vào sử dụng hoặc sử dụng hệ thống AI có mức độ rủi ro không thể chấp nhận được; hành vi sử dụng hệ thống nhận diện sinh trắc học trên các đặc điểm nhạy cảm (chủng tộc, giới tính, dân tộc, tôn giáo, khuynh hướng chính trị), thu thập hình ảnh khuôn mặt không có chủ đích từ Internet hoặc đoạn phim camera giám sát an ninh để tạo cơ sở dữ liệu nhận dạng khuôn mặt và tự nhận dạng cảm xúc ở nơi làm việc, trường học.

UBTVQH nhận thấy, Điều 11 dự thảo Luật đã quy định các hành vi bị cấm trong công nghiệp công nghệ số, trong đó có các hành vi bị cấm liên quan đến hệ thống AI theo hướng quy định nguyên tắc chung (cung cấp, triển khai, sử dụng hệ thống trí tuệ nhân tạo nhằm mục đích: lôi kéo, lừa đảo, phân biệt đối xử; xâm phạm quyền riêng tư, quyền con người, lợi ích của tổ chức, cá nhân; chống lại loài người) để từ đó xây dựng các quy định xử lý vi phạm với các hành vi liên quan.

Đồng thời, tại Chương IV dự thảo Luật có quy định nguyên tắc phát triển, cung cấp, triển khai và sử dụng trí tuệ nhân tạo và tiêu chí phân loại hệ thống trí tuệ nhân tạo và giao Chính phủ quy định chi tiết biện pháp quản lý phù hợp. Do đó, xin giữ như dự thảo Luật.

Tài sản số có thể được trao đổi, đầu tư

Liên quan đến nội dung về tài sản số, ông Lê Quang Huy cho biết, có ý kiến cho rằng cần làm rõ tài sản số có thể sử dụng cho mục đích trao đổi hoặc đầu tư hay không; đề nghị làm rõ nội hàm, tiêu chí phân loại tài sản số.

UBTVQH thấy rằng, theo dự thảo Luật, tài sản số đã được xác định là tài sản theo pháp luật dân sự hiện hành. Quyền tài sản, quyền sở hữu, giao dịch, bảo mật, trách nhiệm, giải quyết tranh chấp, quản lý rủi ro … đã được điều chỉnh theo quy định của pháp luật hình sự, pháp luật về phòng chống tham nhũng, chống rửa tiền và pháp luật có liên quan. Do vậy, nhằm bảo đảm tính khả thi, linh hoạt và ổn định của hệ thống pháp luật, dự thảo Luật chỉ quy định mang tính nguyên tắc và giao Chính phủ quy định cụ thể cho phù hợp với thực tiễn phát triển.

Các đại biểu Quốc hội tại phiên họp chiều 9/5. Ảnh: Quốc hội

Các đại biểu Quốc hội tại phiên họp chiều 9/5. Ảnh: Quốc hội

Tiếp thu ý kiến của ĐBQH, dự thảo Luật đã quy định cụ thể hơn một số nội dung cốt lõi trong quản lý nhà nước về tài sản số, bao gồm: việc tạo lập, phát hành, lưu trữ, lưu ký, chuyển giao, xác lập quyền sở hữu tài sản số; quyền, nghĩa vụ của các bên đối với hoạt động có liên quan đến tài sản số; biện pháp bảo đảm an toàn thông tin, an ninh mạng; phòng, chống rửa tiền, khủng bố; thanh tra, kiểm tra, xử lý hành vi vi phạm pháp luật liên quan đến tài sản số; điều kiện kinh doanh đối với hoạt động cung cấp dịch vụ tài sản mã hóa; phát hành tài sản mã hóa...

Đồng thời giao Chính phủ quy định chi tiết về thẩm quyền, quản lý đối với tài sản số trong lĩnh vực chuyên ngành phù hợp với điều kiện thực tiễn.

Chính phủ quy định thẩm quyền, quản lý đối với tài sản số

Bên cạnh đó, có một số ý kiến cho rằng cần bổ sung thêm khái niệm “tiền số”, về tài sản số như tài sản trí tuệ số NFT, tiền mã hóa và tài sản số liên quan đến dữ liệu lớn; cần làm rõ các giai đoạn của vòng đời tài sản số và trách nhiệm pháp lý tại từng giai đoạn; cũng như đề nghị cần phân cấp trách nhiệm cụ thể giữa Chính phủ, bộ, ngành để bảo đảm tính khả thi.

Về vấn đề này, UBTVQH đã chỉ đạo Cơ quan chủ trì thẩm tra phối hợp với Cơ quan chủ trì soạn thảo tổ chức làm việc với các cơ quan gồm Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Hiệp hội Ngân hàng, Hiệp hội Blockchain Việt Nam. Qua thảo luận, trao đổi có 2 luồng ý kiến, gồm:

Luồng ý kiến thứ nhất cho rằng đây là vấn đề mới, phức tạp, do vậy, chỉ nên nêu khái niệm, nguyên tắc chung và giao Chính phủ quy định chi tiết để bảo đảm tính ổn định của pháp luật. Luồng ý kiến thứ hai đề nghị bổ sung một số khái niệm, phân loại cụ thể tài sản số (tài sản ảo, tài sản mã hóa, tiền mã hóa, NFT, các mã thông báo, …) và có quy định về cung ứng các dịch vụ liên quan nhằm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, chống gian lận, lừa đảo, rửa tiền, tài trợ khủng bố…

“UBTVQH thấy rằng, tài sản số là vấn đề mới, phức tạp, phát triển, thay đổi nhanh chóng; hiện nay chưa có khung pháp lý quy định đầy đủ về vấn đề này và vẫn còn có quan điểm khác nhau của các nước trên thế giới (Hungary, Mỹ,...),” ông Lê Quang Huy nêu rõ.

Do vậy, nhằm bảo đảm tính khả thi, linh hoạt và ổn định của hệ thống pháp luật, UBTVQH thống nhất với loại ý kiến thứ nhất và bổ sung một phần ý kiến thứ hai về nội dung quản lý đối với tài sản số và giao Chính phủ quy định chi tiết phù hợp với điều kiện thực tiễn.

Theo đó, dự thảo Luật Công nghiệp Công nghệ số chỉ quy định mang tính nguyên tắc, quy định về khái niệm tài sản số, tài sản ảo trên môi trường điện tử, tài sản mã hóa; phân loại tài sản số dựa trên mục đích sử dụng, công nghệ và các tiêu chí khác; nội dung quản lý về tài sản số (bao gồm quản lý việc tạo lập, phát hành, lưu trữ, lưu ký, chuyển giao, quyền và nghĩa vụ các bên, thanh tra, kiểm tra, xử lý hành vi vi phạm…). Thẩm quyền, quản lý đối với tài sản số định trong lĩnh vực chuyên ngành sẽ giao Chính phủ quy định phù hợp với điều kiện thực tiễn.

Đỗ Thảo

Nguồn Mekong Asean: https://mekongasean.vn/du-thao-luat-tai-san-so-la-tai-san-theo-phap-luat-dan-su-hien-hanh-41344.html