Dự thảo Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt: Cần đánh giá tác động đa chiều, trước mắt và lâu dài

Theo TS Cấn Văn Lực, dự thảo Luật Thuế Tiêu thụ đặc biệt (sửa đổi) cần làm rõ cơ sở khoa học, thực tiễn, kinh nghiệm quốc tế và đặc thù của Việt Nam khi đưa vào danh sách các mặt hàng chịu thuế. Đánh giá tác động đa chiều, cả trước mắt và lâu dài đối với dự luật này.

Chia sẻ trực tuyến tại “Hội thảo dự thảo Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt (sửa đổi), sáng ngày 8/8, TS Cấn Văn Lực - chuyên gia Kinh tế trưởng BIDV kiêm Giám đốc Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV, thành viên Hội đồng Tư vấn Chính sách tài chính - tiền tệ Quốc gia cho rằng, kinh tế toàn cầu giai đoạn 2020-2024 suy giảm, phục hồi chậm sau đại dịch COVID-19.

Môi trường kinh doanh quốc tế có nhiều rủi ro, bất định. Xung đột địa chính trị leo thang ở nhiều khu vực, nhất là Trung Đông. Cạnh tranh thương mại - công nghệ gia tăng; bảo hộ thương mại tăng, rủi ro chuỗi cung ứng, an ninh năng lượng, an ninh lương thực tăng kéo theo lạm phát cao, lãi suất cao, tỷ giá biến động mạnh hơn.

Sức cầu tiêu dùng và dòng vốn FDI toàn cầu giảm, đang phục hồi nhưng còn chậm. Tất cả đều tác động khá mạnh đối với nền kinh tế Việt Nam – một nền kinh tế mở và hội nhập sâu rộng. Trong bối cảnh này, cộng đồng doanh nghiệp gặp rất nhiều khó khăn liên quan đến vấn đề môi trường pháp lý, nghĩa vụ tài chính, và chi phí đầu, đơn hàng và nguồn nhân lực.

Đối với ngành đồ uống, ngoài khó khăn chung, doanh nghiệp ngành đồ uống còn đối mặt với những khó khăn riêng. Đó là không được hưởng chính sách hỗ trợ thuế giá trị gia tăng (giảm 2%) đối với đồ uống có cồn.

Dự thảo Luật Thuế Tiêu thụ đặc biệt (sửa đổi) cần hài hòa lợi ích, trách nhiệm và tính khả thi đối với Nhà nước, doanh nghiệp và người tiêu dùng.

Dự thảo Luật Thuế Tiêu thụ đặc biệt (sửa đổi) cần hài hòa lợi ích, trách nhiệm và tính khả thi đối với Nhà nước, doanh nghiệp và người tiêu dùng.

Cùng với đó là chịu tác động mạnh từ dịch COVID - 19 và các biện pháp hành chính về tránh tụ tập, đóng cửa các cơ sở ăn uống, lưu trú, vui chơi - giải trí kéo dài; từ Nghị định 100/2019/NĐ-CP về xử lý hành chính vi phạm nồng độ cồn và từ chi phí, giá nguyên vật liệu chính tăng từ 15-40%.

Doanh nghiệp đồ uống cũng đang phải đối mặt với tình trạng buôn lậu, hàng giả, hàng trôi nổi đối với rượu, bia khá phức tạp. Lối sống, hành vi tiêu dùng thay đổi, đòi hỏi doanh nghiệp phải thích ứng.

Kết quả kinh doanh toàn ngành suy giảm qua các năm. Theo Statista (tổ chức thu thập, phân tích dữ liệu), doanh thu thị trường đồ uống Việt Nam năm 2023 đạt khoảng 27,12 tỷ USD, trong đó, phân khúc đồ uống không cồn đạt mức doanh thu 10,22 tỷ USD (chiếm 37,7%); đồ uống có cồn khoảng gần 17 tỷ USD (chiếm 62,3%).

Lợi nhuận bình quân toàn ngành liên tục giảm. Năm 2021 giảm 12%, năm 2022 giảm 6%, năm 2023 ước giảm 10-12% so với năm trước. Thu ngân sách Nhà nước (NSNN) toàn ngành giảm bình quân 10%/năm giai đoạn 2020-2023 (theo Hiệp hội Bia - Rượu - Nước giải khát Việt Nam).

Ngành đồ uống đóng góp NSNN khoảng 60.000 tỷ đồng/năm, bởi vậy, theo ông Lực, dự thảo Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt (sửa đổi) tác động không chỉ đối với doanh nghiệp mà còn tác động tới NSNN.

“Áp dụng Thuế Tiêu thụ đặc biệt theo nội dung dự thảo sửa đổi có thể tăng thu NSNN trong ngắn hạn, nhưng trong trung – dài hạn sẽ làm giảm sức cầu tiêu dùng, giảm doanh thu và lợi nhuận doanh nghiệp. Qua đó, giảm thu thuế tiêu thụ đặc biệt và thuế thu nhập doanh nghiệp”, ông Lực nói.

Một số băn khoăn khác mà ông Lực đặt ra là, tăng thuế đối với đồ uống có đường chưa chắc đã giúp giảm tỷ lệ các căn bệnh béo phí, tim mạch vì căn bệnh này có nhiều nguyên nhân khác. Việc tăng thuế không giúp giảm áp lực lên NSNN hỗ trợ y tế.

Đặc biệt, việc tăng mạnh và nhanh thuế tiêu thụ đặc biệt đối với đồ uống có cồn có thể ảnh hưởng đến hiệu quả đóng góp NSNN lâu dài. Tạo ra tình huống “khó chồng khổ" đối với doanh nghiệp và người lao động trong ngành cũng như các ngành liên quan (bao bì, vận tải, du lịch, dịch vụ ăn uống).

Đó là chưa kể đến, dự thảo luật còn mang tính cào bằng đối với đồ uống có nồng độ cồn khác nhau. Khó điều tiết hành vi tiêu dùng.

Bởi vậy, ông Lực khuyến nghị, dự thảo luật cần có sự hài hòa lợi ích, trách nhiệm và tính khả thi đối với Nhà nước, doanh nghiệp và người tiêu dùng. Có đánh giá tác động đầy đủ, có cơ sở khoa học và thực tiễn.

“Những mặt hàng đưa vào đối tượng chịu thuế cần làm rõ cơ sở khoa học, thực tiễn, kinh nghiệm quốc tế và đặc thù của Việt Nam (như nước giải khát có đường chẳng hạn). Đồng thời, cần đánh giá tác động NSNN và các mặt khác một cách đa chiều hơn, cả trước mắt và lâu dài”, ông Lực nhấn mạnh.

Đưa ra cụ thể một số điểm nên cân nhắc, đánh giá tiếp đối với dự thảo luật, ông Lực cho rằng, dự thảo luật nên tính toán mức thuế, thời điểm và lộ trình tăng thuế phù hợp, khả thi. Tránh hiện tượng “khó chồng khó”, nhanh quá có thể gây sốc, gây tác dụng ngược như lách luật, chuyển sang dùng thử loại nước uống khác có hại hơn.

Làm sao bảo đảm công bằng và hợp lý hơn theo hướng áp thuế suất theo nồng độ cồn, hàm lượng đường, tránh hiện tượng cào bằng khi áp thuế. Nên xem xét cả phương pháp tính thuế tuyệt đối hoặc hỗn hợp thay vì chỉ tính thuế tương đối.

Cần đồng bộ nhiều chính sách, giải pháp để bảo vệ các sản phẩm chính ngạch, chống buôn lậu, trốn thuế, hàng nhái, hàng giả. Qua đó, nâng cao nhận thức, ý thức của cả người dân và doanh nghiệp cũng như tăng cường năng lực của cơ quan quản lý thuế, chính quyền địa phương.

Ngân Hà

Nguồn Doanh Nghiệp: https://doanhnghiepvn.vn/kinh-te/chinh-sach/du-thao-luat-thue-tieu-thu-dac-biet-can-danh-gia-tac-dong-da-chieu-truoc-mat-va-lau-dai/20240808095152818