Ghi chép lời vua
Mỗi triều đại phong kiến Việt Nam đều có bộ phận các quan luôn theo sát vua để ghi lại từng lời nói, ý chỉ, nhằm phục vụ công việc chép sử, đồng thời giúp giám sát hành vi, lời nói của bậc quân vương.
Tên chức quan này mỗi thời mỗi khác. Thời Lý, Trần, đó là chức quan trong Ngự sử đài, thời Lê đặt ở Quốc sử viện nằm trong Viện Hàn lâm, còn thời Nguyễn đặt trong Nội các.

Cổng vào công sở Nội các triều Nguyễn. Ảnh tư liệu, chụp đầu thế kỷ XX
Nhiệm vụ đầu tiên của vị sử quan theo sát bên vua này là ghi chép “Thực lục”, tức cuốn sử chép nguyên văn lời vua, không bịa đặt, không giấu giếm (Chữ “thực” với nghĩa “sự thật”, còn “lục” nghĩa là ghi chép). Thời xưa, mỗi triều vua đều có một bộ thực lục riêng.
Câu chuyện về biên soạn thực lục đầu tiên được bộ chính sử lớn nhất nước ta, “Đại Việt sử ký toàn thư” ghi chép là vào thời Vua Trần Anh Tông, sau sự kiện nhà vua say rượu bị Thượng hoàng Trần Nhân Tông trách phạt, phải nhờ người học trò Đoàn Nhữ Hài viết giúp tờ sớ tạ lỗi mà thượng hoàng cho làm vua tiếp. Đó là sự kiện diễn ra năm Hưng Long thứ 7 (1299). Sau việc đó, Vua Anh Tông cho Đoàn Nhữ Hài làm Ngự sử trung tán, dù ông mới là học sinh, tuổi còn trẻ, chưa đỗ đạt gì.
“Toàn thư” viết: “Nhữ Hài là cận thần của vua. Vua nói năng, hành động gì đều được biết cả. Đến khi nhận chức Ngự sử trung tán, ông xem thực lục của sử thần chép, có chỗ lầm lẫn, bèn sửa lại cho đúng, rồi đốt bỏ bản thảo cũ đi”.
Sang đời Vua Trần Minh Tông, mùa đông năm Khai Thái thứ 6 (1329), Thượng hoàng Trần Anh Tông đi tuần thú đạo Đà Giang, đánh man Ngưu Hống, sử viết ngài sai Thiêm tri Nguyễn Trung Ngạn đi theo “để biên soạn thực lục”.
Vua Trần Minh Tông khi lên làm thượng hoàng, đã thân hành đến Ngự sử đài, trở thành chuyện được ghi ngay vào sử. Đó là chuyện diễn ra vào năm Thiệu Phong thứ 2 (1342), đời Vua Trần Dụ Tông, khi thượng hoàng ngự đến Ngự sử đài vừa trùng tu xong. Chuyến vi hành của thượng hoàng diễn ra vào sáng sớm, chỉ có Ngự sử Trung tán là Lê Duy theo hầu Thượng hoàng.
Khi Thượng hoàng đã trở về cung rồi, hai viên Giám sát ngự sử là Doãn Định và Nguyễn Như Vi mới đến Ngự sử đài. Hai người này bèn làm sớ kháng nghị, nói là thượng hoàng không được vào Ngự sử đài và hặc tội Lê Duy không biết can ngăn, lời lẽ rất gay gắt. Thượng hoàng mới gọi họ đến, dụ rằng: "Ngự sử đài cũng là một trong các cung điện, chưa từng có cung điện nào mà thiên tử không được vào. Vả lại, trong Ngự sử đài xưa kia còn có chỗ để thiên tử giảng học. Các bạ thư chi hậu dâng hầu bút nghiêng đều ở đó cả. Đó việc cũ thiên tử vào Ngự sử đài. Ngày xưa Đường Thái Tông còn xem Thực lục, huống chi là vào đài!". Tuy nhiên, bọn Doãn Định, Như Vi vẫn còn cố cãi, mấy ngày vẫn không thôi. Vua dụ họ 2-3 lần cũng không được, bèn bãi chức cả hai người.
Đó là mới chuyện vua đến Ngự sử đài thôi, còn việc vua xem quốc sử biên soạn về chính mình thì diễn ra dưới thời vị vua anh minh Lê Thánh Tông. Chuyện là năm Quang Thuận thứ 8 (1467), Vua Lê Thánh Tông muốn xem quốc sử, sai nội quan (quan hoạn) tới Hàn lâm viện dụ riêng sử quan Lê Nghĩa rằng: "Trước kia, Phòng Huyền Linh làm sử quan, Đường Thái Tông muốn xem thực lục, Huyền Linh không cho xem. Nay ngươi với Huyền Linh thì ai hơn?".

Bìa “Đại Nam thực lục”, sách ghi chép chi tiết về công việc của các vua triều Nguyễn.
Lê Nghĩa trả lời: "Sự kiện ở cửa Huyền Vũ, Huyền Linh lại không thẳng thắn ghi lại, Đường Thái Tông phải bảo ghi rồi sau mới ghi, như thế e rằng cũng chưa phải là hiền thần".
Nội quan nói: "Vua muốn xem ghi chép hằng ngày từ năm Quang Thuận thứ nhất đến năm thứ 8". Lê Nghĩa trả lời: "Vua mà xem quốc sử, hẳn không phải là việc hay. Những việc làm của Đường Thái Tông và Phòng Huyền Linh đã bị đời sau chê bai đấy!".
Nội quan nói: "Vua bảo là xem những ghi chép hằng ngày để biết trước có lỗi gì còn có thể sửa được". Lê Nghĩa trả lời: "Chỉ cần bệ hạ gắng làm điều hay thôi, việc gì phải xem quốc sử". Nội quan dụ bảo nhiều lần, Lê Nghĩa bèn đáp: "Thành chúa nếu biết sửa bỏ lỗi lầm thì đó là phúc lớn vô hạn của xã tắc, thế dẫu không khuyên can mà cũng không là khuyên can". Rồi ông cũng dâng những ghi chép hằng ngày lên. Vua Lê Thánh Tông xem xong trả lại cho Sử viện, mà không có chỉ đạo gì.
Chuyện mà cả Vua Trần Dụ Tông và Lê Thánh Tông nhắc về việc Đường Thái Tông xem thực lục, diễn ra vào đầu triều Đường bên Trung Quốc. Hoàng tử thứ hai của vua Đường Cao Tổ là Lý Thế Dân, để chiếm ngôi thái tử, đã phục binh ở cửa Huyền Vũ kinh thành, giết chết anh trai là Lý Kiến Thành là em trai là Lý Nguyên Cát. Sau này, khi Lý Thế Dân lên làm vua, tức Đường Thái Tông, xem thực lục, thấy sử quan là Phòng Huyền Linh chỉ chép mập mờ là sự kiện ngày mồng 4 tháng 6 thôi, nên đã bắt ông ta phải chép lại cho rõ ràng.
Nhờ có thái độ của các vị vua nước Việt với sử liệu như vậy, cho nên về sau, hậu thế đọc sử không chỉ nắm được những chiến công hiển hách, những quyết sách sáng suốt của các vị minh quân, mà còn có thể biết rõ cả những sai lầm của các vị vua thời trước.
Tuy nhiên, chính sử, hay từng bộ thực lục, đều chép theo ý chỉ của vua nên có khi không giữ được nguyên vẹn tính chính xác. Cho nên, khi biên soạn bộ “Khâm định Việt sử thông giám cương mục”, chép về cuộc kháng chiến chống quân Minh của Vua Lê Thái Tổ, các sử quan triều Nguyễn đã ghi phía dưới lời “cẩn án”: “Tình hình đương thời ra sao, thực có điều không thể hiểu được. Chỉ vì sử sách thiếu sót, không thể chất chính vào đâu cả. Nay xin kính cẩn chép theo sử cũ, còn thì xin để khuyết nghi”.
Vua Tự Đức đọc đến đó, đã ngự phê rằng: “Điều không thể hiểu được còn nhiều, chứ chẳng những việc này. Có lẽ vì tập sử “Lê kỷ “là do các bầy tôi nhà Lê biên soạn, cho nên tuy gọi là thực lục, nhưng có nhiều lời lẽ quá khoe khoang, không đủ tin là chứng cớ xác thực được”.
Chúa Nguyễn Ánh, từ năm 1790, còn đang ở Gia Định, đã sai quan Thị thư viện sung chức khởi cư chú, là chức quan ghi chép những lời nói việc làm của vua chúa. Bộ sử nhà Nguyễn “Đại Nam thực lục” cho biết trách nhiệm của vị quan này là: “phàm vua làm công việc gì đều chép hết”. Nhờ đó mà về sau, các sử quan triều Nguyễn mới có tư liệu để viết về thời Vua Gia Long còn chưa lên ngôi.
Đến khi Vua Minh Mạng vừa lên ngôi (1820), đã cho đặt Văn thư phòng và các viên Hàn lâm Thị giảng Nguyễn Cửu Khánh và Cống sĩ viện Nguyễn Trường Huy sung chức Khởi cư chú; đều do bộ cấp bằng để làm việc ở Văn thư phòng.
Đầu năm Minh Mạng thứ 11 (1830), Văn thư phòng đổi là Nội các. Bộ phận ghi chép lời vua có tên là Kí chú tào, nằm trong Nội các, nhiệm vụ thảo các loại chiếu, chế, cáo, sắc, chỉ, dụ, ghi chép mọi sinh hoạt, ngôn luận của nhà vua, nội dung các tấu nghị, chương sớ do bách quan tâu trình và danh sách. Ngoài ra, tào này còn có các quan Kinh Diên khởi cư chú, chịu trách nhiệm ghi chép nhật kí học tập của các hoàng tử. Đến năm Minh Mạng thứ 17 (1836), Kí chú tào được đổi tên thành Thừa vụ tào.
Năm 1844, Vua Thiệu Trị đã cho cải tổ lại Nội các, bằng việc đổi tên một số Tào thành Sở, Thừa vụ tào đổi làm Ti luân sở
Vua Minh Mạng từng nói về việc chép lời vua để biên vào sử như sau: “Sử để ghi việc, không phải người học rộng không hiểu nổi. Vừa rồi sai các quan toản tu chức chế đến khi dạng bản tiến lên, lời văn nhiều chỗ quê mùa, thế mới biết tài chép sử là khó. Vả lại, người Khởi cư chú chép đủ việc hay việc dở, vua không nên xem. Xưa Đường Thái Tông xem quốc sử, lại tự tay tước bỏ, trẫm cho là không phải. Người có chức trách cầm bút ghi việc, phải nghĩ làm thế nào cho muôn đời về sau tin được, phải cẩn thận nhé!”.
Quy chế ghi chép lời vua dưới thời Vua Minh Mạng được “Đại Nam thực lục” ghi lại như sau: “Phàm những ngày vua ra ngự ở điện nghe triều chính, thì 4 người khoa đạo, chia ra đứng ở tả hữu trên điện, 2 người bên hữu sung vào chức Khởi cư chú, 2 người bên tả theo dõi ghi chú các việc do các nha tâu lên. Khi ngự giá đi chơi thì đi hộ giá, sự ghi chú cũng như thế. Hằng ngày đem bản thảo ghi chú trình đường quan nhuận sắc lại, cuối tháng chép rõ ràng làm thành tập, rồi cùng ký tên đóng dấu của viện, giao cho Sử quán thu giữ”.
Vua Minh Mạng cũng từng nói về trọng trách của quan Khởi cư chú, khi trò chuyện với Thượng bảo Thiếu khanh là Trương Đăng Quế rằng: “Khởi cư chú là việc làm hay hay dở của ông vua, cất vào kho sách, đến ngày mở sử quán làm sách, phải lấy đấy làm tín sử có thể không cẩn thận chăng! Còn tài làm sử thì rất khó. Bọn ngươi giữ việc biên chép, nên phải gia tâm”.
Nguồn ANTG: https://antgct.cand.com.vn/khoa-hoc-van-minh/ghi-chep-loi-vua-i782426/