Giá gạo xuất khẩu giảm, HTX bị bào mòn lợi nhuận
Xuất khẩu gạo của Việt Nam trong 10 tháng đầu năm 2025 đang cho thấy một nghịch lý đáng báo động là sản lượng duy trì ổn định nhưng giá trị lại giảm sâu. Trong bối cảnh thị trường lúa gạo thế giới biến động mạnh, gạo Việt chịu nhiều áp lực lớn về giá và sức cạnh tranh đã tác động không nhỏ đến những hợp tác xã (HTX) trong ngành này.
Theo số liệu của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, 10 tháng năm 2025, cả nước xuất khẩu hơn 6,8 triệu tấn gạo, chỉ giảm nhẹ 1,9% về lượng so với cùng kỳ năm 2024. Tuy nhiên, giá trị lại sụt giảm mạnh, với kim ngạch 3,5 tỷ USD, giảm tới 19,9% so với cùng kỳ. Nguyên nhân là do giá xuất khẩu bình quân chỉ đạt 510,81 USD/tấn, giảm 18,3%.
Áp lực đè nặng
Xu hướng giảm giá thể hiện rõ theo chu kỳ, với quý I/2025 là giai đoạn giảm mạnh nhất, xuống chỉ còn 522 USD/tấn. Dù từ tháng 4, giá phục hồi nhưng chậm, không đủ kéo kim ngạch cải thiện, và đến tháng 9, giá tiếp tục phản ánh mức thấp, chỉ đạt 497,8 USD/tấn.
Sự sụt giảm kim ngạch này không chỉ là vấn đề của các doanh nghiệp xuất khẩu mà còn trực tiếp bào mòn lợi nhuận, làm xói mòn động lực sản xuất bền vững của hàng triệu nông dân, đặc biệt là các HTX lúa gạo, những "tế bào cơ bản" trong chuỗi giá trị.
Sự sụt giảm giá trị xuất khẩu gạo Việt Nam đến từ nhiều yếu tố vĩ mô phức tạp. Nguyên nhân chính khiến giá gạo Việt giảm là cạnh tranh giá gay gắt trên thị trường quốc tế. Sau thời gian hạn chế xuất khẩu, Ấn Độ quay lại thị trường với lượng dự trữ lớn, tạo áp lực đè giá mạnh.

Nhiều HTX lúa gạo thời điểm này như "đổi tiền cũ lấy tiền mới" và đầu ra còn yếu.
Song song đó, Thái Lan cũng duy trì mức giá thấp nhất trong 9 năm qua nhờ nguồn cung dồi dào. Ông Nguyễn Văn Trọng, thương nhân xuất khẩu gạo tại An Giang nhận định, những yếu tố này khiến giá gạo tẻ thường, mặt hàng chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam, giảm mạnh theo.
Năm 2025 cũng chứng kiến sự biến động lớn ở các thị trường chủ lực. Philippines, thị trường chiếm 41-44% lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam, tạm ngừng nhập khẩu từ ngày 1/9/2025 và chỉ gia hạn thêm 60 ngày nữa, khiến giá trị xuất khẩu sang thị trường này giảm 16,4% dù vẫn là khách hàng lớn nhất.
Ngược lại, nhiều thị trường châu Phi tăng mạnh, như Ghana tăng 58,6%; Bờ Biển Ngà tăng 95,5%; Bangladesh tăng tới 164,7 lần. Tuy nhiên, mức giá nhập khẩu ở các thị trường này thấp, không đủ bù phần hụt từ Philippines. Thị trường Malaysia giảm tới 55,1%, cho thấy thị trường gạo Việt Nam đang phân hóa rõ rệt.
Các chuyên gia cho rằng, dù có thị trường thay thế, nhưng giá thấp khiến tổng giá trị mặt hàng này không cải thiện. Sự phụ thuộc quá lớn vào thị trường Philippines vẫn là điểm nghẽn của ngành hàng lúa gạo hiện nay. Hơn thế nữa, cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam vẫn lệ thuộc gạo tẻ thường, chi phí logistics cao và thiếu hợp đồng dài hạn khiến doanh nghiệp, HTX dễ bị động, càng làm giảm sức cạnh tranh về giá.
Đầu ra yếu, lợi nhuận bị bào mòn
Tại nhiều vùng sản xuất lúa chủ lực ở Đồng bằng sông Hồng và Đồng bằng sông Cửu Long, áp lực đầu ra đang là vấn đề sống còn, trực tiếp ảnh hưởng đến các HTX.
Theo khảo sát, giá lúa gạo ngày 7/11 quay đầu giảm 100 - 200 đồng, sức mua yếu. Giá lúa IR 50404 (tươi) quanh mức 5.100 - 5.300 đồng/kg (giảm 200 đồng); lúa OM 5451 (tươi) ở mức 5.300 - 5.500 đồng/kg (giảm 100 đồng); lúa OM 18 (tươi) là 5.600 - 5.700 đồng/kg (giảm 100 đồng); lúa OM 380 (tươi) quanh mức 5.700 - 5.900 đồng/kg; lúa Nàng Hoa 9 ở mức 6.000 - 6.200 đồng/kg; lúa Đài Thơm 8 (tươi) dao động quanh 5.600 - 5.700 đồng/kg (giảm 100 đồng)…
Ông Trịnh Văn Dứt, Giám đốc HTX nông nghiệp Tân Phú A1 (An Giang) cho biết: "Giá lúa hiện nay nghe nói thì ổn, nhưng thực tế khi ra ruộng thì trầm lắng. Nhiều thương lái đến xem rồi lại thôi, kho lớn hạn chế thu mua vì đầu ra yếu. Điều này không chỉ khiến nông dân, HTX mà cả doanh nghiệp đều bị áp lực".
Sự trầm lắng này phản ánh việc doanh nghiệp xuất khẩu khó ký được hợp đồng mới do nhu cầu toàn cầu chậm lại, kéo theo việc họ hạn chế thu mua lúa nguyên liệu từ các HTX. Trong khi đó, giá nhóm gạo nguyên liệu xuất khẩu chất lượng như OM 5451, OM 380, IR504 dao động 5.700- 5.9000 đồng/kg, cho thấy nhu cầu chế biến phục vụ xuất khẩu vẫn có nhưng không mạnh như trước.
Khi đầu ra yếu, nông dân và HTX phải đối mặt với nguy cơ tồn đọng lúa gạo, kéo theo rủi ro về vốn và chất lượng. Điều này làm bào mòn lợi nhuận thực tế của người nông dân, HTX. Theo đại diện một số HTX, sản xuất lúa thời điểm này chỉ là lấy công làm lời. Do đó, HTX mong Nhà nước sớm có giải pháp giúp ổn định đầu ra để mỗi vụ lúa thật sự là vụ mùa no ấm.
Sự thiếu hụt lợi nhuận này cản trở nỗ lực tái đầu tư vào sản xuất bền vững, áp dụng khoa học kỹ thuật hoặc mở rộng vùng nguyên liệu theo các tiêu chuẩn cao như SRP (Tiêu chuẩn Thực hành Trồng lúa Bền vững) của HTX, làm chậm quá trình chuyển đổi sang giai đoạn "lấy chất lượng làm hàng đầu" của ngành lúa gạo Việt Nam. Điều này cũng đồng nghĩa với việc các HTX, doanh nghiệp lúa gạo không dễ đa dạng hóa thị trường và phát triển theo hướng bền vững, có thương hiệu, để mang lại giá trị xứng tầm trên thị trường thế giới.











