Giai đoạn tới đặt ra những yêu cầu gì đối với giáo dục đại học?
Phó Giáo sư Lê Huy Hoàng cho rằng, cần nâng cao tỉ lệ chi ngân sách nhà nước cho giáo dục đại học ngang bằng với trung bình các nước trong khu vực.
LTS: Nghị quyết 29-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo tiếp tục bổ sung, làm sâu sắc hơn quan điểm “giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu”. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển, được ưu tiên đi trước trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Sau 10 năm (từ 2013-2023), giáo dục đại học đã có thay đổi mạnh mẽ cả về chất lượng và hiệu quả trong đào tạo ở các trình độ.
Để có bức tranh toàn cảnh về sự chuyển mình của giáo dục đại học kể từ khi có Nghị quyết 29, Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam có cuộc trao đổi với Phó Giáo sư, Tiến sĩ Lê Huy Hoàng – Phó Vụ trưởng Vụ giáo dục, Ban Tuyên giáo Trung ương.
Phóng viên: Dưới góc nhìn của ông, những dấu mốc nào gắn liền với chủ trương và đường lối của Đảng ta trong phát triển giáo dục đại học?
Phó Giáo sư Lê Huy Hoàng: Năm 1993, với nhận định “quy mô giáo dục đại học và chuyên nghiệp còn nhỏ bé”, Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII đã sớm đề ra những giải pháp cơ bản, tạo nền tảng phát triển giáo dục đại học Việt Nam trong suốt ba thập kỷ qua.
Đó là những giải pháp: Xây dựng trường chất lượng cao, trường đại học trọng điểm quốc gia; Phát triển giáo dục ngoài công lập trong lĩnh vực giáo dục đại học; Gắn viện nghiên cứu với trường đại học, gắn đào tạo với nghiên cứu khoa học; Tăng cường tự chủ giáo dục đại học, mở rộng dân chủ trong nhà trường; Và đầu tư các trường sư phạm, thu hút học sinh giỏi học sư phạm.
Chủ trương, đường lối của Đảng về phát triển giáo dục đại học nêu trên tiếp tục được hoàn thiện tại Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII với những bổ sung đáng chú ý như: Chủ trương đào tạo, nghiên cứu trong các doanh nghiệp lớn; Xây dựng trường cao đẳng cộng đồng phục vụ nguồn nhân lực tại chỗ; Đào tạo đại học cho vùng khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số để chuẩn bị cho công tác cán bộ; Đầu tư xây dựng phòng thí nghiệm trọng điểm, sản xuất thử nghiệm hiện đại; phát huy vai trò của cấp ủy, tổ chức cơ sở đảng trong các cơ sở giáo dục đại học.
Đến năm 2013, chủ trương, đường lối của Đảng về giáo dục đại học được đề cập đầy đủ, sâu sắc, có tính đột phá, thể hiện rõ trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI “về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế” (Nghị quyết số 29-NQ/TW).
Về mục tiêu giáo dục đại học, Nghị quyết số 29-NQ/TW nêu rõ “tập trung đào tạo nhân lực trình độ cao, bồi dưỡng nhân tài, phát triển phẩm chất và năng lực tự học, tự làm giàu tri thức, sáng tạo của người học. Hoàn thiện mạng lưới các cơ sở giáo dục đại học, cơ cấu ngành nghề và trình độ đào tạo phù hợp với quy hoạch phát triển nhân lực quốc gia; trong đó, có một số trường và ngành đào tạo ngang tầm khu vực và quốc tế. Đa dạng hóa các cơ sở đào tạo phù hợp với nhu cầu phát triển công nghệ và các lĩnh vực, ngành nghề; yêu cầu xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và hội nhập quốc tế.”
Về nhiệm vụ, giải pháp, Nghị quyết số 29-NQ/TW hướng tới giải quyết những vấn đề lớn của giáo dục đại học, cập nhật với xu hướng quốc tế, phù hợp với đặc thù Việt Nam. Trong đó nhấn mạnh:
Về hệ thống giáo dục đại học: Quy hoạch lại mạng lưới cơ sở giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học gắn với quy hoạch phát triển kinh tế-xã hội. Thực hiện phân tầng cơ sở giáo dục đại học theo định hướng nghiên cứu và ứng dụng, thực hành. Hoàn thiện mô hình đại học quốc gia, đại học vùng; củng cố và phát triển một số cơ sở giáo dục đại học lượng cao đạt trình độ tiên tiến của khu vực và thế giới. Tăng tỷ lệ trường ngoài công lập đối với giáo dục đại học.
Về nội dung giáo dục: Đổi mới mạnh mẽ nội dung giáo dục đại học và sau đại học theo hướng hiện đại. Chú trọng phát triển năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành, đạo đức nghề nghiệp và hiểu biết xã hội, từng bước tiếp cận trình độ khoa học và công nghệ tiên tiến của thế giới.
Về quản lí và quản trị: Giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các cơ sở giáo dục, đào tạo; phát huy vai trò của hội đồng trường. Thực hiện giám sát của các chủ thể trong nhà trường và xã hội; tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra của cơ quan quản lý các cấp; bảo đảm dân chủ, công khai, minh bạch.
Về nghiên cứu khoa học và hợp tác quốc tế: Tăng cường năng lực, nâng cao chất lượng và hiệu quả nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ của các cơ sở giáo dục đại học. Gắn kết chặt chẽ giữa đào tạo và nghiên cứu, giữa các cơ sở đào tạo với các cơ sở sản xuất, kinh doanh. Ưu tiên đầu tư phát triển khoa học cơ bản, khoa học mũi nhọn, phòng thí nghiệm trọng điểm, phòng thí nghiệm chuyên ngành, trung tâm công nghệ cao, cơ sở sản xuất thử nghiệm hiện đại trong một số cơ sở giáo dục đại học.
Về tài chính: Đẩy mạnh xã hội hóa, trước hết là giáo dục đại học. Thực hiện cơ chế đặt hàng trên cơ sở hệ thống định mức kinh tế-kỹ thuật, tiêu chuẩn chất lượng của một số loại hình dịch vụ đào tạo bảo đảm chi trả tương ứng với chất lượng, phù hợp với ngành nghề và trình độ đào tạo.
Phóng viên: Để nêu ra những thành tựu của giáo dục đại học sau 10 năm thực hiện Nghị quyết 29, ông sẽ đề cập những gì?
Phó Giáo sư Lê Huy Hoàng: Thời điểm hiện tại, các cấp, các ngành đang tập trung triển khai Đề án tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW, chưa có những nhận định, đánh giá chính thức về thành tựu đạt được trong lĩnh vực giáo dục đại học. Tuy nhiên, qua nghiên cứu, theo dõi, khảo sát thực tiễn, có thể khẳng định, giáo dục đại học Việt Nam trong những năm qua đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận, góp phần quan trọng trong đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao, nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nổi bật là:
Việc tuyển sinh và tổ chức đào tạo ở các trình độ của giáo dục đại học tăng mạnh về quy mô, chất lượng đào tạo được nâng cao, cơ bản đáp ứng nguồn nhân lực trình độ cao, nâng cao năng lực khoa học công nghệ, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội, an ninh quốc phòng và nhu cầu học tập của người dân; góp phần thúc đẩy nền kinh tế đất nước từng bước phát triển bền vững.
Mạng lưới cơ sở giáo dục đại học không ngừng được mở rộng, cụ thể, năm 2010, cả nước có 188 cơ sở giáo dục đại học (trong đó có 50 trường tư thục); năm 2023, cả nước có 244 cơ sở giáo dục đại học (trong đó có 67 trường tư thục, 05 trường có vốn đầu tư nước ngoài).
Sự phát triển về quy mô giáo dục đại học đã góp phần tăng số sinh viên trên một vạn dân (năm 2021, đạt 215 sinh viên/ vạn dân). Một số cơ sở giáo dục đại học Việt Nam đã lọt vào các bảng xếp hạng 1000 trường đại học tốt nhất thế giới, khu vực. Nhiều ngành đào tạo được mở mới, nhất là một số ngành kĩ thuật, công nghệ mũi nhọn nhằm bắt kịp xu hướng phát triển khoa học – công nghệ, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Công tác quản lí nhà nước và quản trị cơ sở giáo dục đại học có nhiều đổi mới. Nhận thức và quyết tâm triển khai tự chủ đại học của các cấp quản lí và lãnh đạo các cơ sở giáo dục đại học được nâng cao rõ rệt. Công tác xây dựng thể chế tự chủ đại học được ưu tiên, quan tâm triển khai, tạo hành lang pháp lí cho các trường thực hiện tự chủ. Đến nay, cả nước đã có hơn 140 trường đại học đủ điều kiện tự chủ theo quy định của Luật Giáo dục đại học. Sau một thời gian thực hiện tự chủ, một số cơ sở giáo dục đại học đã có những bước tiến vượt bậc.
Hoạt động đảm bảo chất lượng và công tác kiểm định chất lượng giáo dục đại học đã được quan tâm hơn và đạt được những kết quả quan trọng. Hệ thống văn bản cho công tác kiểm định chất lượng giáo dục đại học sớm được ban hành và dần được hoàn thiện. Hình thành hệ thống các trung tâm kiểm định trong nước. Hầu hết các cơ sở giáo dục đại học, các chương trình đào tạo tham gia đánh giá và được công nhận đạt tiêu chuẩn chất lượng giáo dục. Trong đó, nhiều chương trình đào tạo, cơ sở giáo dục đại học tham gia kiểm định và đạt chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế.
Đội ngũ giảng viên của các cơ sở giáo dục đại học trên toàn quốc phát triển nhanh cả về số lượng và chất lượng. Trong đó, ngày càng nhiều giảng viên được đào tạo ở nước ngoài. Số giảng viên có học hàm, học vị cao trong các cơ sở giáo dục đại học tăng nhanh trong những năm gần đây, đạt tỉ lệ 0.89% giáo sư, 6,21% phó giáo sư, 31% tiến sĩ vào năm 2021.
Vài năm trở lại đây, đã có các giảng viên đại học Việt Nam lọt vào danh sách các nhà khoa học ảnh hưởng nhất thế giới. Cụ thể, năm 2023 có 7 nhà khoa học của Việt Nam lọt top 10.000 nhà khoa học ảnh hưởng nhất thế giới. Sự phát triển về đội ngũ giảng viên đã trực tiếp tác động tích cực tới chất lượng đào tạo và thành tích nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ của các cơ sở giáo dục đại học.
Nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ được quan tâm, thúc đẩy. Một số cơ sở giáo dục đại học có sự hợp tác chặt chẽ với doanh nghiệp trong nghiên cứu, phát triển công nghệ, ứng dụng trong sản xuất, kinh doanh. Số lượng các công trình khoa học công bố quốc tế tăng nhanh trong thời gian gần đây, có những công trình được chuyển giao công nghệ, ứng dụng hiệu quả trong thực tiễn. Trong giai đoạn 2018-2022, Việt Nam có gần 80.000 công bố quốc tế, trong đó kể từ năm 2020 đến nay số lượng công bố hàng năm đều đạt trên 18.000 bài.
Phóng viên: Bên cạnh những kết quả đạt được, giáo dục đại học Việt Nam được đánh giá là chưa thực sự trở thành động lực then chốt thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, đang tồn tại không ít các hạn chế, yếu kém cần khắc phục. Ông nghĩ sao về điều này?
Phó Giáo sư Lê Huy Hoàng: Đúng vậy, công tác thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng về phát triển giáo dục đại học chưa được triển khai kịp thời; một số chính sách còn chồng chéo, chưa nhất quán; việc sửa đổi, bổ sung chính sách trước những bất cập khi triển khai trong thực tiễn còn chậm. Việc triển khai, tổ chức thực hiện đổi mới giáo dục đại học chưa thật sự quyết liệt, nhất quán; chưa chú trọng và phát huy vai trò của công tác kiểm tra, giám sát.
Công tác quy hoạch mạng lưới các cơ sở giáo dục đại học gắn với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch phát triển nguồn nhân lực theo tinh thần Nghị quyết số 29-NQ/TW đến nay chưa hoàn thành. Hệ thống cơ sở giáo dục đại học phát triển không đồng đều, quy mô đào tạo rất khác nhau, nhiều trường tư thục và trường trực thuộc địa phương có quy mô nhỏ, lĩnh vực đào tạo hẹp và hoạt động không hiệu quả. Tỉ lệ các cơ sở giáo dục đại học tư thục, nhất là trường tư thục không vì lợi nhuận còn thấp so với mục tiêu đặt ra. Hệ thống các trường sư phạm, sư phạm kĩ thuật ít được đầu tư, chưa được quy hoạch, chưa thu hút được sinh viên giỏi theo học.
Quy mô đào tạo đại học của hệ thống tuy có tăng trưởng nhưng còn thấp so với khu vực, nhất là mức trung bình các nước thuộc khối OECD. Đáng báo động là quy mô đào tạo sau đại học rất thấp và đang có xu hướng giảm. So với tổng quy mô đào tạo tất cả các trình độ của giáo dục đại học, đào tạo trình độ thạc sĩ chiếm khoảng 5%, ở trình độ tiến sĩ chiếm 0,6%, thấp hơn rất nhiều trong khu vực và trên thế giới. Nhiều ngành đào tạo vai trò quan trọng với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước thuộc các lĩnh vực khoa học, công nghệ, kĩ thuật và toán (ngành STEM) ít được đầu tư, không thu hút được sinh viên theo học, thậm chí không tuyển sinh được (bao gồm cả bậc học thạc sĩ, tiến sĩ), tới nay vẫn chưa được quan tâm, giải quyết.
Các cơ sở giáo dục đại học, cao đẳng trực thuộc sự quản lí của nhiều bộ, ngành, địa phương khác nhau, tạo sự “phức tạp, cồng kềnh, phân mảnh và kém hiệu quả” trong công tác quản lí nhà nước về giáo dục đại học. Tự chủ đại học còn nhiều vướng mắc về thể chế, chậm được khắc phục; nhiều cơ sở giáo dục đại học còn bị động, thụ động trong thực hiện tự chủ; năng lực tự chủ của nhiều cơ sở giáo dục đại học nhìn chung là thấp; công tác phối hợp giữa Đảng ủy, Ban Giám hiệu và Hội đồng trường còn nhiều lúng túng; hoạt động của hội đồng trường có nơi còn hình thức, không có thực quyền; công tác xây dựng thể chế hoạt động của nhà trường chưa được chú trọng đúng mức.
Ngân sách nhà nước đầu tư cho giáo dục đại học rất thấp (0,27% GDP) trong cả tương quan với tổng ngân sách dành cho giáo dục cũng như trong tương quan với mức đầu tư ngân sách cho giáo dục đại học của các nước trong khu vực và quốc tế. Việc cắt giảm ngân sách nhà nước đầu tư cho các cơ sở giáo dục đại học thực hiện tự chủ không phù hợp với thông lệ quốc tế. Kinh phí hoạt động của các cơ sở giáo dục đại học tự chủ đến phần lớn (khoảng 80%) từ học phí của người học là chưa phù hợp. Cơ chế phân bổ ngân sách nhà nước cho giáo dục đại học hiện nay chưa gắn với năng lực, hiệu quả hoạt động của của cơ sở giáo dục đại học. Cơ chế đặt hàng, giao nhiệm vụ và đấu thầu đối với một số ngành thiết yếu chưa được thực hiện, gặp nhiều khó khăn. Chính sách tín dụng sinh viên còn nhiều bất cập, hạn chế khả năng tiếp cận của nhiều nhóm đối tượng sinh viên.
Mặc dù có sự gia tăng đáng kể các bài báo đăng trên các tạp chí quốc tế uy tín, nhưng vẫn khá thấp so với chuẩn chung của các trường đại học trong khu vực và trên thế giới. Điều đáng nói, các công trình nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ áp dụng và mang lại hiệu quả cao trong thực tiễn còn ít; số lượng sáng chế còn rất thấp. Nhiều cơ sở giáo dục đại học chưa chú trọng gắn kết với doanh nghiệp thúc đẩy nghiên cứu khoa học, phát triển và chuyển giao công nghệ. Việc sắp xếp, điều chỉnh mạng lưới các trường đại học và các viện nghiên cứu theo hướng gắn đào tạo với nghiên cứu khoa học chưa được quan tâm triển khai trong thực tiễn.
Phóng viên: Trước thực trạng đó, theo ông giai đoạn tới đặt ra những yêu cầu gì đối với giáo dục đại học gắn với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước?
Phó Giáo sư Lê Huy Hoàng: Theo Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, quy mô giáo dục đại học hướng tới đạt mục tiêu 270 sinh viên/ vạn dân vào năm 2025. Cùng với đó là các nhiệm vụ, giải pháp tương đối toàn diện phát triển giáo dục đại học với tư tưởng chủ đạo là “Có chính sách đột phá phát triển, nâng cao chất lượng giáo dục đại học”. Phát triển giáo dục đại học cũng là giải pháp quan trọng thực hiện đột phá chiến lược về phát triển nguồn nhân lực đã nêu trong Nghị quyết.
Bên cạnh đó, giáo dục đại học thời gian tới cần phải là yếu tố then chốt nhằm “thúc đẩy ứng dụng mạnh mẽ khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo, nhất là thành tựu của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, tạo bứt phá về năng suất lao động, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của các ngành, lĩnh vực và cả nền kinh tế”; là lực lượng tiên phong, dẫn dắt trong hiện thực hóa quan điểm “phát triển công nghiệp chế tạo, chế biến là then chốt; chuyển đổi số là phương thức mới có tính đột phá; công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn là một trong những nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu; dịch chuyển từ gia công, lắp ráp sang nghiên cứu, thiết kế và sản xuất tại Việt Nam” được nêu trong Nghị quyết số 29-NQ/TW, ngày 17/11/2022 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII về “tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”.
Theo tôi, để đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục đại học trong tình hình mới, cần thiết phải nghiên cứu, xây dựng đề án, trình Trung ương ban hành Nghị quyết riêng về “Phát triển giáo dục đại học đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong giai đoạn mới”. Nội dung của Nghị quyết phải thể hiện được những quan điểm, xu hướng mới về phát triển giáo dục đại học; mục tiêu và những chỉ tiêu cần bám sát chiến lược phát triển kinh tế - xã hội; những nhiệm vụ, giải pháp mới, toàn diện, đột phá cho phát triển giáo dục đại học.
Trước mắt, cần tập trung triển khai đồng bộ, quyết liệt và có hiệu quả một số giải pháp như:
Tiếp tục thể chế hóa, thực hiện nghiêm túc chủ trương, đường lối của Đảng về phát triển giáo dục đại học, nhất là quan điểm, mục tiêu, các nhiệm vụ giải pháp về giáo dục đại học trong Nghị quyết số 29-NQ/TW và Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng.
Nhanh chóng xây dựng, ban hành Quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục đại học và sư phạm thời kì 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050, đảm bảo các yêu cầu cơ bản sau:
Đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước với nền tảng là khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo; Thúc đẩy mạnh mẽ chuyển đổi số; thích ứng đầy đủ và chủ động tham gia Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; Chú trọng phát triển các lĩnh vực STEM; Tạo không gian mở để phát triển cơ sở giáo dục đại học tư thục, nhất là các trường đại học tư thục không vì lợi nhuận; Liên thông với giáo dục nghề nghiệp; Đa dạng hóa loại hình đào tạo, mở rộng cơ hội cho người dân theo học đại học, đáp ứng nhu cầu học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập. Tiếp tục hoàn thiện mô hình đại học quốc gia, đại học vùng.
Nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản lí nhà nước về giáo dục đại học. Đẩy nhanh tự chủ đại học, nâng cao năng lực tự chủ của các cơ sở giáo dục đại học, đổi mới mạnh mẽ quản trị đại học theo hướng hội nhập, hiện đại. Chú trọng công tác đảm bảo chất lượng giáo dục; phát triển hệ thống các trung tâm kiểm định chất lượng giáo dục độc lập. Tăng cường công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình của cơ sở giáo dục đại học; phát huy dân chủ, sự liêm chính và tính tranh biện trong học thuật. Đẩy nhanh tiến trình chuyển đổi số, sớm triển khai đại học số, tạo ra những giá trị mới, cách làm mới, sự đột phá về hiệu quả và chất lượng trong đào tạo, nghiên cứu khoa học và hoạt động quản trị của cơ sở giáo dục đại học.
Gắn kết chặt chẽ giữa cơ sở giáo dục đại học, viện nghiên cứu, doanh nghiệp; thúc đẩy mạnh mẽ nghiên cứu khoa học, phát triển và chuyển giao công nghệ. Có chính sách đủ mạnh để thu hút được nhân tài trong và ngoài nước tham gia nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ, trong các cơ sở giáo dục đại học. Thúc đẩy nghiên cứu cơ bản; khuyến khích nghiên cứu ứng dụng, phát triển công nghệ; tập trung vào sáng chế, nhằm “nâng cao năng lực tự chủ của Việt Nam về sản xuất, công nghệ và thị trường”.
Nâng cao tỉ lệ chi ngân sách nhà nước cho giáo dục đại học ngang bằng với trung bình các nước trong khu vực; đổi mới cơ chế đầu tư theo hướng gắn với kết quả đầu ra của các cơ sở giáo dục đại học, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh trong toàn hệ thống; thực hiện vai trò điều tiết của cơ quan quản lí nhà nước trong đặt hàng cơ sở giáo dục đại học thực hiện các nhiệm vụ mang tính chiến lược, trong đầu tư, khuyến khích phát triển các ngành quan trọng, cần thiết nhưng không thu hút được người học. Đổi mới chính sách tín dụng, tạo cơ hội rộng mở và bình đẳng cho người dân theo học tại các cơ sở giáo dục đại học.
Phóng viên: Trân trọng cảm ơn Phó Giáo sư Lê Huy Hoàng.