Giải phóng Trường Sa - ký ức của người trong cuộc
'50 năm trước, lúc 4 giờ ngày 11-4-1975, cùng với phân đội hỏa lực thuộc Quân khu 5, anh em đặc công hải quân chúng tôi cơ động từ căn cứ đến quân cảng Đà Nẵng để lên các tàu vận tải của Đoàn 125, nhận lệnh đi thực hiện nhiệm vụ giải phóng Trường Sa...'. Đó là chia sẻ của ông Đào Mạnh Hồng (ngày đó, ông là Thượng sĩ, bí danh là Đào Mạnh Hống, Phân đội trưởng Phân đội 1 thuộc Đội 1, Trung đoàn 126 Đặc công Hải quân, nay là Lữ đoàn Đặc công Hải quân 126).
Nhiệm vụ đặc biệt
Trong căn nhà nằm trên đường Đà Nẵng, phường Đông Hải 1 (Hải An, Hải Phòng), ông Đào Mạnh Hồng nhớ lại: Mệnh lệnh đi giải phóng Trường Sa đến với chúng tôi trước lúc tàu nhổ neo đúng nửa ngày. Khi đó, Thượng tá Mai Năng, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 126 Đặc công Hải quân được cấp trên giao làm Chỉ huy trưởng lực lượng đi giải phóng Trường Sa. Sở chỉ huy đặt trên Tàu 675 của biên đội “Tàu không số”, gồm các tàu: 673, 674, 675 của Đoàn 125.
Đảo Song Tử Tây được chọn là nơi giải phóng đầu tiên. 17 giờ ngày 13-4-1975, biên đội tàu đến gần đảo Song Tử Tây. Trung đoàn trưởng Mai Năng lệnh cho Tàu 673 vòng vào gần đảo để trinh sát. Sau đó, biên đội di chuyển ra xa đảo, chuẩn bị thực hiện phương án chiến đấu. “Anh Mai Năng quyết định chọn Phân đội 1 của tôi đánh trận mở màn. Phân đội 1 gồm 3 tổ chiến đấu do tôi trực tiếp chỉ huy. Tổ 1 do đồng chí Nguyễn Sĩ Niệm quê ở Thanh Hóa làm tổ trưởng, Tổ 2 do đồng chí Nguyễn Thanh Bình quê ở Nghệ An làm tổ trưởng, Tổ 3 do đồng chí Nguyễn Đức Thông quê ở Nam Định làm tổ trưởng... Đây là trận đánh thứ 16 trong đời quân ngũ của tôi nhưng lại là trận đầu tiên chúng tôi đánh địch ở đảo xa bờ, trong khi chưa biết tình hình lực lượng và bố phòng của địch trên đảo thế nào. Cái khó của chúng tôi là đơn vị chưa có tiền lệ đánh chiếm đảo. Đặc công nước chủ yếu đánh cầu, đánh tàu, đánh kho tàng ở ven cảng, ven sông, ven đầm hồ chứ chưa có kinh nghiệm đánh ngoài đảo xa. Đã thế, suốt hành trình ra đảo, bộ đội phải nằm dưới khoang hàng của tàu, ngột ngạt nên say sóng. Nhiều người nôn mật xanh mật vàng, say lả, thế nhưng khi nhận nhiệm vụ thả quân vào đảo thì tỉnh như sáo”, ông Đào Mạnh Hồng nhớ lại.

Cựu chiến binh Đào Mạnh Hồng (bên trái) cùng tác giả tại TP Hải Phòng, tháng 4-2025. Ảnh: HẢI NINH
19 giờ ngày 13-4-1975, Tàu 673 chở Phân đội 1 gồm 25 chiến sĩ tiếp cận gần đảo. Địch trên đảo bắn pháo sáng cảnh cáo, xua đuổi, Tàu 673 lùi ra xa, thả trôi. Tàu 674 (chở Phân đội 2) và Tàu 675 (chở Phân đội 3) cơ động ra phía Bắc và phía Nam đảo, sẵn sàng chi viện. “1 giờ ngày 14-4, Tàu 673 tắt đèn tiến vào gần đảo. Chỉ huy tàu là người có kinh nghiệm đi biển, khôn khéo lợi dụng lúc thủy triều đang lên để điều khiển tàu đến vị trí có lợi nhất cho lực lượng đặc công tiếp cận. Khi tàu còn cách đảo khoảng 5km, phân đội đặc công xuống 3 xuồng hướng về mục tiêu, đến cách đảo khoảng 3km thì được lệnh rời xuồng để bơi chiến thuật. Sau 3 giờ vật lộn với sóng nước, cả 3 tổ đặc công của Phân đội 1 chúng tôi đã tiếp cận được các mục tiêu và các vị trí trọng yếu trên đảo...”, ông Đào Mạnh Hồng kể.
Những phút quyết chiến
4 giờ 30 phút ngày 14-4-1975, các tổ của Phân đội 1 đã chiếm lĩnh những vị trí sẵn sàng nổ súng tấn công địch, nhưng đợi mãi vẫn không thấy tiếng nổ của khẩu DKZ do đồng chí Nguyễn Ngọc Quế chỉ huy trận đánh phát lệnh như đã hiệp đồng. Lúc này, Phân đội trưởng Đào Mạnh Hống quyết định ra lệnh cho chiến sĩ Lê Minh Đức bắn 3 phát súng B41 vào ăng-ten trung tâm chỉ huy đảo và đây cũng là mệnh lệnh đồng loạt tấn công của trận đánh. 3 tổ chiến đấu bất ngờ xông lên, đồng loạt tung thủ pháo và lựu đạn vào các lô cốt địch. Ngay phút chiến đấu đầu tiên, quân ta đã khống chế được 3 lô cốt đầu cầu.
“15 phút đầu tiên, trận chiến diễn ra rất ác liệt. Địch từ trong các công sự và trong nhà bắn ra chống trả quyết liệt. Cùng phối hợp với lực lượng đặc công chiến đấu trên đảo, Thuyền trưởng Tàu 673 Nguyễn Xuân Thơm cũng chỉ huy tàu bắn chi viện. Sau hơn 30 phút chiến đấu, trước sức tiến công của ta kèm theo loa phát thanh kêu gọi đầu hàng, địch phải rút chạy và co cụm hết về phía Tây Nam đảo. 5 giờ 15 phút ngày 14-4, ta hoàn toàn làm chủ đảo Song Tử Tây. Địch trên đảo có 39 tên thì bị ta tiêu diệt 6 tên, 7 tên bị thương. Quân ta hy sinh ngay tại đảo 1 người, 1 người hy sinh trên đường về đất liền. Người hy sinh ngay tại đảo là Hạ sĩ Tống Văn Quang, quê ở huyện Đồng Hỷ, tỉnh Bắc Thái (nay là tỉnh Thái Nguyên), chiến sĩ của Trung đoàn 38, Sư đoàn 2 (Quân khu 5) được tăng cường cho Trung đoàn 126 Đặc công Hải quân ra giải phóng Trường Sa. Chúng tôi tổ chức chôn cất liệt sĩ Quang ngay trên đảo Song Tử Tây rồi nổ súng tiễn biệt đồng đội. Liệt sĩ thứ hai là Hạ sĩ Ngô Văn Quyền của Trung đoàn 126 Đặc công Hải quân, quê Hải Phòng. Trong lúc truy kích địch, Quyền bị một viên đạn bắn vào bụng nhưng vẫn cố gắng tiếp tục chiến đấu. Hôm sau, có tàu chở tù binh về đất liền, tôi quyết định đưa Quyền vào bờ để chữa trị vết thương. Khi bế Quyền lên xuồng đưa ra tàu, tôi ôm Quyền khóc, hẹn khi tiến vào Sài Gòn sẽ chiến đấu cùng nhau. Sau này về đất liền, tôi mới biết Quyền đã hy sinh khi tàu chưa kịp cập cảng. Năm ấy, Quyền vừa tròn 20 tuổi...”, ông Đào Mạnh Hồng bùi ngùi kể.
Trong khi cả 3 tàu vào đất liền chờ lệnh làm nhiệm vụ thì cán bộ, chiến sĩ tham gia giải phóng đảo được giao ở lại phòng thủ, bảo vệ đảo Song Tử Tây. Theo ông Đào Mạnh Hồng, ở trên đảo khi đó phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, thiếu thốn. Thực phẩm chủ yếu là trứng chim luộc với muối tự làm và lương khô, gạo sấy mang theo; rau thì chỉ có hái sam dại để luộc. Bộ đội ai cũng bị kiết. Thời tiết lại khắc nghiệt, ngày nắng, đêm mưa gió gần như bão, lốc. Vất vả như vậy nhưng anh em cảnh giác cao độ, thay nhau đi tuần tra canh giữ đảo. Có hôm, 2 chiếc tàu gỗ không treo cờ mò vào sát đảo nhưng nhìn thấy cờ của ta và sự bố phòng chặt chẽ, nhất là đặc công hải quân còn làm các trận địa nghi binh, thì tàu lạ tự quay ra.