Giảm 'phiền hà' cho doanh nghiệp phân bón để đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững
Trong bối cảnh thị trường biến động và áp lực hội nhập, những bất cập trong Luật Trồng trọt và chính sách thuế xuất khẩu phân bón vẫn đang 'đè nặng' lên ngành phân bón. Những kiến nghị sửa đổi Luật Trồng trọt và các văn bản quy phạm pháp luật liên quan được kỳ vọng sẽ mở ra hướng đi mới, vừa bảo vệ sản xuất phân bón trong nước, vừa nâng cao năng lực cạnh tranh quốc tế…

Hội thảo "Một số bất cập của Luật Trồng trọt và các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến lĩnh vực phân bón".
Ngày 11/9/2025, tại Hà Nội, Hiệp hội Phân bón Việt Nam phối hợp với Tổng hội Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam, Hội Sản xuất kinh doanh Thuốc Bảo vệ thực vật Việt Nam, tổ chức hội thảo: "Một số bất cập của Luật Trồng trọt và các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến lĩnh vực phân bón".
DOANH NGHIỆP ĐỔI MỚI CÔNG NGHỆ, NHÀ NƯỚC HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH
Phát biểu khai mạc hội thảo, TS. Phùng Hà, Chủ tịch Hiệp hội Phân bón Việt Nam, cho biết phân bón là vật tư đầu vào quan trọng trong nông nghiệp, chiếm từ 40 – 60%, thậm chí có thể tới 70% trong chi phí trồng trọt. Trong nhiều năm qua, ngành sản xuất phân bón trong nước đạt khoảng 6,5 – 7 triệu tấn/năm; nhập khẩu thêm 3 – 4 triệu tấn/năm. Nguồn cung này về cơ bản đáp ứng đầy đủ nhu cầu phân bón cho nông nghiệp Việt Nam, chưa từng xảy ra tình trạng thiếu hụt lớn.
Tuy nhiên, trước xu thế phát triển mới của nền kinh tế, đặc biệt là yêu cầu về nông nghiệp xanh, nông nghiệp tuần hoàn và cam kết của Chính phủ thực hiện mục tiêu Net Zero vào năm 2050, ngành phân bón cần định hướng phát triển theo chiều sâu. Trong số các ngành phát thải khí nhà kính lớn, sản xuất và sử dụng phân bón đứng ở vị trí hàng đầu. Do đó, cần tập trung phát triển các sản phẩm phân bón chất lượng cao, tiết kiệm năng lượng, thân thiện với môi trường; đồng thời, hướng dẫn nông dân sử dụng phân bón hiệu quả, an toàn.

TS. Phùng Hà: "Cần tập trung phát triển các sản phẩm phân bón chất lượng cao, tiết kiệm năng lượng, thân thiện với môi trường". Ảnh Chu Khôi.
"Cục Bảo vệ Thực vật đã có Văn bản số 2440 ngày 1/8/2025 đề nghị tổng hợp, các ý kiến của các doanh nghiệp và thành viên của ngành phân bón, cũng như các lĩnh vực liên quan về sửa đổi Luật Trồng trọt, để trình Bộ Nông nghiệp và Môi trường cùng các cấp có thẩm quyền", TS.Phùng Hà thông tin thêm.
TS. Nguyễn Trí Ngọc, Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hiệp hội Phân bón Việt Nam, cho biết Luật Trồng trọt được Quốc hội thông qua năm 2018, có hiệu lực từ ngày 1/1/2020, đã tạo ra hành lang pháp lý quan trọng cho hoạt động sản xuất, kinh doanh và quản lý trong lĩnh vực trồng trọt, đặc biệt là quản lý phân bón. Sau hơn 5 năm thực hiện, luật đã phát huy nhiều tác dụng tích cực, song cũng bộc lộ không ít hạn chế cần khắc phục để phù hợp với yêu cầu phát triển mới và xu thế hội nhập quốc tế.

TS, Nguyễn Trí Ngọc: "Việc kiểm soát và xử lý các hành vi sản xuất, kinh doanh phân bón giả, kém chất lượng vẫn là thách thức lớn". Ảnh Chu Khôi.
Theo TS. Ngọc, Luật Trồng trọt đã giúp kiểm soát chất lượng phân bón chặt chẽ hơn, đảm bảo các sản phẩm trên thị trường đều đạt tiêu chuẩn chất lượng theo quy chuẩn kỹ thuật quốc gia. Tuy nhiên, việc kiểm soát và xử lý các hành vi sản xuất, kinh doanh phân bón giả, kém chất lượng vẫn là thách thức lớn. Các quy định hiện hành chưa đủ sức răn đe, dẫn đến người nông dân vẫn chịu thiệt hại.
Nhấn mạnh đến một trong những bất cập lớn nhất, TS.Ngọc cho rằng đó là quy trình cấp Quyết định công nhận phân bón lưu hành. Theo quy định, thời hạn xét cấp là 3 tháng, nhưng nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn khi thực hiện. Thủ tục hành chính phức tạp khiến doanh nghiệp tốn kém thời gian và chi phí, làm chậm quá trình đưa sản phẩm ra thị trường.
KIẾN NGHỊ GIẢM BỚT KHẢO NGHIỆM, GIẢM THUẾ XUẤT KHẨU
Đóng góp ý kiến tại hội thảo, ông Trương Hợp Tác, chuyên gia phân bón, cho biết trong Luật Trồng trọt; Nghị định số 84/2019/NĐ-CP và các văn bản hướng dẫn vẫn còn nhiều quy định chồng chéo, gây khó khăn cho doanh nghiệp. Đơn cử, yêu cầu khảo nghiệm phân bón cũng gây tốn kém, kéo dài thời gian đưa sản phẩm ra thị trường, trong khi quy chuẩn Việt Nam đã quy định rõ mức dinh dưỡng tối thiểu và tối đa các chất độc hại. Do đó, khảo nghiệm cho các loại phân bón đã đáp ứng quy chuẩn Việt Nam là không cần thiết.
Vì vậy, ông Tác đề xuất cần bãi bỏ các quy định không còn phù hợp như yêu cầu công nhận phân bón lưu hành và khảo nghiệm cho sản phẩm đã đáp ứng quy chuẩn Việt Nam. Thay vào đó, doanh nghiệp tự khai báo, đăng ký sản phẩm với sự giám sát của cơ quan chức năng. Việc xây dựng phần mềm khai báo thống nhất toàn quốc là giải pháp khả thi.
Theo ông Hoàng Văn Tại, nguyên Tổng giám đốc Công ty Cổ phần phân lân nung chảy Văn Điển, tính khả thi và hiệu quả của các cơ sở khảo nghiệm hiện nay còn hạn chế. Quy chuẩn Việt Nam đưa ra hàng trăm khái niệm và phân loại, khiến doanh nghiệp phải đăng ký nhiều tên khác nhau cho các sản phẩm tương tự. Điều này gây khó cho cả cơ quan quản lý lẫn doanh nghiệp. Ngoài ra, yêu cầu đăng ký lại sau 5 năm cũng thiếu hợp lý. Do đó, ông Tại kiến nghị giảm bớt quy trình khảo nghiệm, cấp phép, chỉ yêu cầu hợp quy với sản phẩm mới hoặc thay đổi công thức lớn, đồng thời tăng cường hậu kiểm và cho phép xã hội hóa một số khâu.

Ông Đỗ Đức Hùng kiến nghị giữ nguyên thuế suất xuất khẩu supe lân ở mức 0%. Ảnh Chu Khôi.
Ông Đỗ Đức Hùng, Phó Tổng giám đốc Công ty Cổ phần Vật tư Nông sản (Apromaco) nêu vấn đề trong khi một số loại phân bón đã được hưởng thuế xuất khẩu 0%, nhưng hiện xuất khẩu supe lân vẫn phải chịu thuế 5%.
Theo quy định trước đây, mặt hàng phân bón (bao gồm phân supe lân) được chế biến từ nguyên liệu chính là tài nguyên, khoáng sản có tổng giá trị là tài nguyên, khoáng sản cộng với chi phí năng lượng dưới 51% giá thành sản xuất sản phẩm thì thuế xuất khẩu là 0%; nếu giá trị tài nguyên khoáng sản cộng chi phí năng lượng chiếm từ 51% giá thành trở lên thì áp dụng thuế suất xuất khẩu 5%.
Thực tế sản xuất phân bón supe lân của chúng tôi và các đơn vị sản xuất khác trong những năm qua cho thấy: Chi phí nguyên liệu chính (quặng apatit) khoảng 675 kg/tấn sản phẩm; Chi phí năng lượng chủ yếu là điện năng, khoảng 8,37 kW/tấn sản phẩm; Tổng chi phí nguyên liệu và năng lượng chỉ chiếm 35-40% giá thành sản phẩm. Như vậy, mặt hàng supe lân hoàn toàn đáp ứng tiêu chí để áp dụng thuế suất xuất khẩu 0% theo quy định cũ".
Ông Đỗ Đức Hùng - Phó Tổng giám đốc Công ty Cổ phần Vật tư Nông sản (Apromaco).
Ông Hùng cho rằng việc áp thuế xuất khẩu 5% khiến supe lân Việt Nam kém cạnh tranh so với Trung Quốc và các nước không đánh thuế, gây áp lực tồn kho, buộc doanh nghiệp cắt giảm sản lượng và lao động. Nếu kéo dài, chính sách này có thể làm mất đi một ngành sản xuất, xuất khẩu quan trọng.
"Chính phủ sớm sửa đổi Nghị định 26/2023/NĐ-CP, đưa thuế suất xuất khẩu supe lân về 0% để bảo vệ sản xuất trong nước, khuyến khích xuất khẩu và tăng cường đối thoại với doanh nghiệp”, ông Hùng kiến nghị.
Đại diện Tổng công ty Phân bón và Hóa chất Dầu khí (PVFCCo), cho biết nhu cầu Urea hàng năm của Việt Nam dao động từ 1,7 – 2 triệu tấn, trong khi tổng công suất sản xuất của 4 nhà máy Urea trong nước đạt 2,6 – 2,8 triệu tấn, dẫn đến dư thừa 600.000 – 900.000 tấn/năm. Do đó, các nhà sản xuất buộc phải xuất khẩu để duy trì nhà máy hoạt động ổn định và có nguồn tiền mua nguyên liệu. Trong khi đó, PVFCCo đang mua khí thiên nhiên với giá trên 10 USD/Mm Btu, cao hơn so với các nước trong khu vực chỉ 6 – 8 USD/MMBtu. Giá khí hoàn toàn thả nổi theo thị trường quốc tế, không có ưu đãi. Khi nguồn cung khí nội địa suy giảm, PVFCCo có thể phải nhập LNG, làm tăng thêm chi phí.
Theo Nghị định số 144/2024/NĐ-CP, thuế xuất khẩu 5% áp dụng cho phân bón Urea. Chính sách này ban hành trong bối cảnh thị trường biến động, ngành trong nước dư cung và cạnh tranh gay gắt từ hàng nhập khẩu giá rẻ. Trong khi đó, các quốc gia sản xuất Urea trong khu vực như Trung Đông, Trung Quốc, Indonesia, Malaysia, Brunei không áp thuế xuất khẩu. Trong số 42 quốc gia xuất khẩu Urea trên thế giới, chỉ có Nga áp dụng thuế xuất khẩu từ 1/10/2023 ở mức 7 – 10%, tùy theo tỷ giá USD/Rúp. Việc áp thuế của Nga chủ yếu nhằm phản ứng trước lệnh trừng phạt từ EU.
PVFCCo cho rằng việc áp thuế 5% tại Việt Nam làm giảm cơ hội kinh doanh, giảm hiệu quả sản xuất và suy giảm năng lực cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Doanh nghiệp kiến nghị giảm thuế suất xuất khẩu Urea từ 5% về 0% để hỗ trợ tiêu thụ lượng dư thừa, tăng năng lực cạnh tranh, tận dụng công suất nhà máy và đóng góp ngoại tệ.