Giữ bản sắc để phát triển du lịch bền vững
Trong bối cảnh du lịch toàn cầu chuyển mạnh sang giá trị bản địa và trải nghiệm chân thực, văn hóa các dân tộc thiểu số Việt Nam đang nổi lên như nguồn lực đặc biệt quan trọng cho phát triển bền vững.

Tại Hội thảo “Bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số gắn với phát triển du lịch” được Bộ Văn hóa, Du lịch và Thể thao tổ chức trong khuôn khổ Tuần "Đại đoàn kết các dân tộc - Di sản Văn hóa Việt Nam" năm 2025, các chuyên gia đều khẳng định di sản văn hóa không chỉ là kho tàng tinh thần mà còn là “tài nguyên mềm” tạo sức cạnh tranh cho du lịch Việt Nam trong giai đoạn mới.
1. Văn hóa truyền thống của 54 dân tộc Việt Nam là nền tảng của bản sắc, góp phần củng cố sức mạnh nội sinh và gia tăng sức cạnh tranh cho quốc gia. Đây chính là hạt nhân tạo nên sản phẩm du lịch đặc thù, những sản phẩm độc đáo, không thể sao chép, mang bản sắc vùng miền rõ rệt. Theo đó, PGS, TS Bùi Hoài Sơn - Ủy viên Chuyên trách Ủy ban Văn hóa và Xã hội của Quốc hội, văn hóa vùng dân tộc thiểu số là nơi lưu giữ nhiều giá trị nguyên sơ từ kiến trúc nhà ở, trang phục, ngôn ngữ đến lễ hội, tri thức bản địa… Tất cả những điều đó đang trở thành lợi thế khác biệt để Việt Nam phát triển du lịch bền vững. Thực tiễn tại các mô hình du lịch cộng đồng như Sin Suối Hồ (Lai Châu), Lao Chải - Tả Van (Lào Cai), Pả Vi (Hà Giang) hay Kon Kơ Tu (Kon Tum) đã chứng minh rằng khi văn hóa được trao đúng vị trí, người dân trở thành chủ thể kiến tạo sản phẩm, vừa giữ gìn truyền thống vừa tạo động lực kinh tế mới.
Ở góc độ xây dựng sản phẩm du lịch, PGS, TS Nguyễn Thị Song Hà (Học viện Khoa học Xã hội) nhận định rằng văn hóa dân tộc thiểu số chính là hạt nhân của các sản phẩm đặc thù, thứ tạo ra trải nghiệm mà không nơi nào có được. Bà cho biết, nhiều làng nghề dệt, ẩm thực, lễ hội, tri thức bản địa hoàn toàn có thể trở thành “điểm chạm” văn hóa hấp dẫn nếu được khai thác đúng cách. Tuy nhiên, sự phát triển còn thiếu đồng bộ, sản phẩm trùng lặp và hạ tầng yếu khiến nhiều điểm đến chưa bật lên được giá trị thực. Riêng về nghệ thuật biểu diễn là loại hình di sản phi vật thể quý nhất của nhiều cộng đồng nhưng chưa được khai thác tương xứng. Khèn H'Mông, Then Tày, Nùng, cồng chiêng Tây Nguyên hay múa Dao đều chứa đựng tri thức, thẩm mỹ và câu chuyện văn hóa sâu sắc. Nhưng nhiều nơi lại đưa vào biểu diễn theo kiểu “nhanh, ngắn, tiện tour”, khiến bản sắc bị mài mòn. PGS, TS Kiều Trung Sơn khẳng định, muốn làm du lịch từ di sản thì phải tôn trọng tính nguyên bản của nó.
Một góc nhìn khác, TS Triệu Văn Bình (Hội đồng dân tộc của Quốc hội) cho rằng, trang phục truyền thống cũng là tài nguyên du lịch lớn nhưng đang bị bỏ ngỏ. Mỗi hoa văn, kỹ thuật nhuộm chàm, dệt lanh, thêu sáp ong hay se sợi đều là “tri thức sống” của cộng đồng. Trang phục không chỉ để mặc, mà là cuốn sử thu nhỏ. Nhiều điểm đến như Xà Phìn, Zèng, Lùng Tám đã tận dụng trang phục để thu hút du khách quốc tế. Nhưng nguy cơ thương mại hóa, hàng giả thổ cẩm hay sự đứt gãy truyền nghề đang đe dọa trực tiếp tính nguyên bản của di sản này.
2. Từ những phân tích của các chuyên gia, một định hướng chung đã được xác lập, phát triển du lịch văn hóa vùng dân tộc thiểu số phải bắt đầu từ việc coi văn hóa là tài nguyên chiến lược, đặt cộng đồng ở vị trí trung tâm và ứng dụng sáng tạo các giá trị truyền thống vào sản phẩm du lịch hiện đại. PGS, TS Bùi Hoài Sơn cho rằng, cần thay đổi cách tiếp cận từ “khai thác tài nguyên” sang “phát triển dựa trên văn hóa”, trong đó văn hóa giữ vai trò quyết định chất lượng và tính bền vững của điểm đến. Điều này đòi hỏi quy hoạch tổng thể, định vị rõ giá trị đặc sắc và bảo đảm tính nguyên bản của di sản.
Bên cạnh đó, nâng cao năng lực cộng đồng, những người trực tiếp vận hành sản phẩm du lịch cũng là vấn đề cấp bách. Việc đào tạo về quản lý du lịch, truyền thông số, thiết kế trải nghiệm, giữ vệ sinh môi trường và bảo tồn nghề truyền thống sẽ giúp người dân không chỉ tham gia mà còn làm chủ chuỗi giá trị du lịch. PGS, TS Nguyễn Thị Song Hà cho rằng một sản phẩm du lịch đặc thù chỉ bền vững khi nó vừa phản ánh bản sắc văn hóa, vừa tạo ra thu nhập ổn định, vừa giữ chân lớp trẻ tiếp tục gìn giữ nghề nghiệp của cha ông. Trong khi đó, PGS, TS Kiều Trung Sơn (Viện nghiên cứu văn hóa - Viện hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam) đề xuất đẩy mạnh xây dựng các chương trình nghệ thuật biểu diễn mang tính nguyên bản nhưng có cấu trúc phù hợp với du khách, gắn trình diễn với không gian văn hóa bản địa thay vì đưa lên sân khấu hóa đơn thuần. Ông nhấn mạnh vai trò đào tạo thế hệ nghệ nhân trẻ, hỗ trợ nghệ nhân cao tuổi và số hóa những tư liệu quý để làm nền tảng cho sáng tạo mới.
Một yêu cầu quan trọng được các chuyên gia thống nhất là tăng cường ứng dụng chuyển đổi số, xây dựng bản đồ số của điểm đến, sản xuất video quảng bá chất lượng cao, sử dụng công nghệ thực tế ảo để tái hiện lễ hội, số hóa tri thức bản địa nhằm lan tỏa rộng rãi tới thế hệ trẻ và du khách quốc tế. Bên cạnh đó, cần hoàn thiện chính sách hỗ trợ từ trung ương đến địa phương, bao gồm đầu tư hạ tầng, tín dụng ưu đãi, khuyến khích doanh nghiệp đồng hành với cộng đồng, thúc đẩy liên kết vùng để hình thành các tuyến du lịch văn hóa đặc sắc.
Nhìn từ nhiều góc độ, thông điệp chung đều rất rõ ràng, chỉ khi văn hóa được đặt ở vị trí trung tâm, du lịch mới có thể phát triển bền vững. Việc khai thác di sản của cộng đồng không thể dựa trên sự dễ dãi, mà phải xuất phát từ sự tôn trọng và đồng hành lâu dài. Giữ được hồn cốt văn hóa hôm nay cũng chính là giữ lại lời hứa về một tương lai du lịch Việt Nam khác biệt, nhân văn và có chiều sâu.

Giữ bản sắc để phát triển du lịch bền vững

Bản sắc văn hóa của mỗi dân tộc nếu biết phát huy đúng hướng sẽ trở thành điểm chạm văn hóa hấp dẫn.

Đồng bào dân tộc Sán Chỉ (Lạng Sơn) giới thiệu di sản văn hóa dân tộc mình tại một sự kiện văn hóa.
Nguồn Nhân Dân: https://nhandan.vn/giu-ban-sac-de-phat-trien-du-lich-ben-vung-post925582.html











