Giữ lấy nếp làng
Nếp sống nơi thôn quê từng hiện diện trong tâm thức bao thế hệ như một miền ký ức dịu dàng, thân thuộc. Đó là mái nhà rơm ẩn mình dưới rặng tre làng, là con đường đất đỏ dẫn ra cánh đồng thơm mùi rạ mới, là tiếng gà gáy râm ran giữa màn sương bảng lảng mỗi sáng tinh mơ. Nơi ấy, tuổi thơ của bao người từng hồn nhiên lớn lên, từng cất tiếng gọi mẹ, từng nghêu ngao những khúc đồng dao bên lũy tre chiều muộn. Nhưng rồi, như một điều không ai ngờ tới, cuộc chia tay với nếp sống làng quê đang lặng lẽ diễn ra từng ngày, để lại sự tiếc nuối lắng đọng trong lòng biết bao người.
Đô thị hóa đang len lỏi vào từng thôn xóm. Không ồn ào như phố thị, nhưng sự thay đổi diễn ra từng ngày, từng giờ. Những con đường đất nhỏ giờ trải bê tông, phẳng lỳ. Những hàng rào dâm bụt trổ hoa đỏ thắm năm nào được thay bằng tường gạch cao, cổng sắt. Giếng làng, nơi bà vẫn gánh từng gánh nước trong veo đã bị san lấp, nhường chỗ cho sân lát gạch sáng bóng. Ao bèo, bờ ruộng, những đụn rơm vàng óng từng là biểu tượng của mùa gặt, của trù phú, của ký ức giờ chỉ còn trong tranh vẽ và những câu chuyện kể.

Những chùm hoa gạo “thắp lửa” tô điểm khung cảnh làng quê. Ảnh: QUỲNH PHẠM
Chiều trở lại quê, tôi đứng lặng bên con đường làng năm xưa, nơi từng cắp sách đến trường, nơi từng nhảy dây, đánh chuyền, chơi khăng với lũ bạn. Không còn nghe tiếng sáo diều, không còn thấy bóng mẹ gánh lúa về trong buổi hoàng hôn. Mọi thứ như phủ lên mình lớp áo khác, hiện đại hơn, cao lớn hơn, nhưng lạnh lẽo, xa lạ. Ngôi nhà ngói ba gian hai chái mái rêu phong đã được thay bằng ngôi nhà tầng khang trang. Không còn mùi thơm của rơm rạ cháy sau mùa gặt, không còn tiếng mõ trâu, không còn cả tiếng ếch nhái đêm mưa mùa hạ. Một thứ gì đó rất làng quê, rất Việt Nam... đang biến mất dần như làn khói mỏng giữa đồng chiều.
Người làng cũng đổi khác. Trước đây, chiều về là cả xóm râm ran tiếng cười nói, người lớn tụ tập uống trà, bàn chuyện mùa màng, trẻ con tụm năm tụm bảy chơi trò rồng rắn. Nay thì nhà nào cũng kín cổng cao tường. Người với người gặp nhau qua màn hình điện thoại, ít còn chào hỏi ngoài ngõ. Văn hóa làng, vốn gắn với tình người, với sự sẻ chia, nay cũng bị xô đẩy bởi nhịp sống tất bật, thực dụng.
Sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế càng khiến làng quê thay đổi đến chóng mặt. Người trẻ lên thành phố, ít người muốn quay về. Người ở lại thì thôi cày cấy, chuyển sang mở quán ăn, làm nghề dịch vụ, lập xưởng nhỏ. Đồng ruộng bỏ không, hoặc phân lô bán đất. Làng không còn là nơi chỉ có cây lúa, con trâu, mà giờ là những dãy nhà san sát, những con đường nhựa và bảng hiệu quán xá chen chúc.
Có điều, sự tiếc nuối lớn nhất không nằm ở cảnh vật, mà là ở ký ức văn hóa đang dần bị đứt gãy. Có những đứa trẻ lớn lên giữa làng mà chưa một lần thấy con trâu. Chúng chỉ biết đến “ao làng”, “lũy tre” qua các bài thơ trong sách giáo khoa. Những câu chuyện cổ tích, những lời ru của bà, tiếng chày giã cốm, hay hương khói chiều Ba mươi Tết... cũng trở nên xa lạ. Một thế hệ lớn lên thiếu hụt những điều giản dị mà thiêng liêng, những thứ không thể mua được bằng tiền, càng không thể tái tạo được nếu đã mất đi.
Làng-với người Việt không đơn thuần là không gian sống. Đó là hồn cốt, là cội nguồn. Mỗi làng một nghề, một tục, một điệu hát ru. Mỗi làng là một bản sắc, một lát cắt văn hóa của dân tộc. Mất đi nếp làng là mất đi một phần căn tính, là đứt đoạn sợi dây nối liền quá khứ với hiện tại. Bởi thế, phát triển là điều không tránh khỏi, nhưng phát triển cũng không đồng nghĩa với việc quên lãng những gì thuộc về cội nguồn.
Vậy làm sao để giữ lại được nếp làng giữa thời đô thị hóa? Làm sao để con người hiện đại vẫn có một chốn để thương, để nhớ, để quay về?
Câu trả lời, có lẽ bắt đầu từ việc biết trân quý ký ức. Những công trình mới nếu được xây dựng hài hòa với kiến trúc truyền thống, nếu giữ lại được những khoảng sân, bờ ao, gốc đa... thì sẽ giúp cho làng vẫn còn hồn cốt. Cải tạo không có nghĩa là phá bỏ tất cả, mà là gìn giữ những gì đáng giữ. Ao làng có thể được nạo vét sạch sẽ, trồng sen, trồng súng. Nhà văn hóa có thể kết hợp không gian truyền thống với sinh hoạt cộng đồng hiện đại. Ngay cả những con đường mới, nếu được tô điểm bằng hàng cây, giàn hoa giấy, hay bức bích họa làng xưa... cũng sẽ khiến người ta bớt nhớ thương.

Hình ảnh thân thuộc nơi làng quê Việt Nam. Ảnh: DUY KHANG
Giữ làng không chỉ là giữ cảnh vật mà còn là giữ phong tục, giữ nếp nghĩ, giữ tình làng nghĩa xóm. Những lễ hội truyền thống, trò chơi dân gian, các phiên chợ quê, lớp học hát ru... nếu được phục dựng và tổ chức thường xuyên, sẽ là cầu nối để thế hệ trẻ hiểu, yêu và tự hào về nơi mình sinh ra.
Giáo dục và truyền thông cũng đóng vai trò quan trọng. Trẻ em cần được kể cho nghe về quê hương, được dạy những bài học nhỏ về làng, được xem phim, đọc sách về làng. Đó không chỉ là bảo tồn văn hóa mà còn là cách nuôi dưỡng tâm hồn, bồi đắp bản sắc dân tộc.
Đặc biệt, người làm quy hoạch, xây dựng, quản lý, nếu đặt tâm thế yêu làng như yêu quê, yêu mẹ thì hẳn sẽ biết chọn cách phát triển vừa hiện đại, vừa nhân văn. Một mô hình nông thôn sinh thái, làng nghề kết hợp du lịch, làng truyền thống gắn với văn hóa cộng đồng... hoàn toàn có thể là hướng đi bền vững.
Bởi một ngày nào đó, khi ta mỏi mệt giữa chốn thị thành đông đúc, hẳn ai cũng muốn có một nơi để trở về. Nơi ấy không phải là những tòa nhà cao tầng, không phải phố xá ồn ào, mà là ngõ nhỏ thân quen, là tiếng gọi nhau văng vẳng, là mùi rơm khô gợi nhớ, là tiếng võng đu đưa giữa trưa hè, là cái giếng làng trong vắt tuổi thơ.
Giữ được làng là giữ được hồn cốt dân tộc. Để mỗi khi ai đó ngước nhìn bầu trời trong veo, nghe tiếng chim kêu đầu ngõ, thấy mình như được trở lại dù chỉ trong khoảnh khắc, với một miền quê thẳm sâu trong ký ức, nơi cuộc sống chậm rãi, nơi con người chân tình, nơi những giá trị Việt còn vẹn nguyên, lặng lẽ mà bền bỉ như hạt thóc trên đồng, giản dị mà nuôi sống cả tâm hồn Việt Nam.
Nguồn QĐND: https://www.qdnd.vn/80-nam-cach-mang-thang-tam-va-quoc-khanh-2-9/giu-lay-nep-lang-843996