Giữ nghề làm tranh dân gian Đông Hồ

Ngày 9/12/2025, tại Kỳ họp lần thứ 20 của Ủy ban liên Chính phủ Công ước 2003, Nghề làm tranh dân gian Đông Hồ của Việt Nam chính thức được UNESCO đưa vào danh sách Di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp. Sự kiện này không chỉ là sự ghi nhận của cộng đồng quốc tế đối với một giá trị văn hóa đặc sắc của Việt Nam, mà còn là lời nhắc nhở mạnh mẽ về trách nhiệm bảo vệ, phục hồi và phát huy di sản trong bối cảnh hiện đại hóa và hội nhập sâu rộng.

Từ giá trị văn hóa dân gian đến chính sách công

Nghề làm tranh dân gian Đông Hồ từ lâu đã được nhìn nhận như một biểu tượng của mỹ thuật dân gian Việt Nam. Tuy nhiên, nếu chỉ dừng lại ở cách tiếp cận mang tính biểu trưng hay hoài niệm, chúng ta sẽ khó thấy hết chiều sâu và tính thời sự của di sản này trong bối cảnh phát triển hôm nay. Việc UNESCO xếp Nghề làm tranh dân gian Đông Hồ vào danh sách Di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp cho thấy rõ thực tế: di sản này đang đối mặt nguy cơ mai một.

Nghề làm tranh dân gian Đông Hồ là sản phẩm của hệ sinh thái văn hóa - kinh tế - xã hội đặc thù của làng quê Bắc Bộ, nơi tri thức dân gian, kỹ năng thủ công, tổ chức lao động gia đình - dòng họ và nhu cầu văn hóa cộng đồng gắn bó chặt chẽ với nhau. Khi hệ sinh thái ấy bị tác động mạnh bởi quá trình đô thị hóa, chuyển đổi sinh kế, thay đổi thị hiếu thẩm mỹ và sự lấn át của sản phẩm công nghiệp, nghề làm tranh không còn đủ điều kiện tự thân để duy trì như trước. Số lượng nghệ nhân giảm, không gian thực hành bị thu hẹp, thị trường truyền thống gần như biến mất - đó là những dấu hiệu cho thấy di sản đang bước vào vùng “báo động”.

Đoàn đại biểu Việt Nam tại Kỳ họp lần thứ 20 của Ủy ban liên Chính phủ Công ước 2003. Ảnh: BVHTTDL

Đoàn đại biểu Việt Nam tại Kỳ họp lần thứ 20 của Ủy ban liên Chính phủ Công ước 2003. Ảnh: BVHTTDL

Chính vì vậy, việc Nghề làm tranh dân gian Đông Hồ được đưa vào danh sách Di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp không mang ý nghĩa “vinh danh” thuần túy, mà là một cảnh báo chính sách. UNESCO không chỉ công nhận giá trị, mà đồng thời yêu cầu quốc gia thành viên phải có cam kết mạnh mẽ và kế hoạch cụ thể để bảo vệ di sản, với sự tham gia thực chất của cộng đồng chủ thể.

Từ góc nhìn quản lý nhà nước, Nghề làm tranh dân gian Đông Hồ đặt ra những câu hỏi lớn: Nhà nước phải làm gì khi một di sản không còn khả năng tự nuôi sống mình? Cơ chế nào để bảo tồn mà không “đóng băng” di sản? Chính sách nào để người làm di sản có thể sống được bằng nghề, chứ không chỉ sống vì trách nhiệm gìn giữ truyền thống?

Một hành trình kiên trì và thận trọng

Hồ sơ Nghề làm tranh dân gian Đông Hồ được khởi động từ năm 2018, khi tôi đang là Viện trưởng Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam. Chúng tôi đã xác định rõ: đây không phải là một hồ sơ “đi nhanh”, mà là quá trình dài, đòi hỏi sự chuẩn bị kỹ lưỡng cả về khoa học, pháp lý và thực tiễn.

Lựa chọn danh sách Di sản cần bảo vệ khẩn cấp đồng nghĩa với việc phải đối mặt trực diện với những khó khăn, thách thức của di sản, thay vì chỉ nhấn mạnh những giá trị đã được khẳng định. Hồ sơ phải trả lời thuyết phục các câu hỏi cốt lõi của UNESCO: Nghề làm tranh Đông Hồ đang gặp nguy cơ gì? Nguyên nhân từ đâu? Cộng đồng nghệ nhân còn bao nhiêu người? Họ có mong muốn gì? Và Nhà nước Việt Nam cam kết những giải pháp cụ thể nào để bảo vệ di sản trong trung và dài hạn?

Nghệ nhân Nguyễn Đăng Chế là một trong số ít người duy trì nghề làm tranh dân gian Đông Hồ. Ảnh: BVHTTDL

Nghệ nhân Nguyễn Đăng Chế là một trong số ít người duy trì nghề làm tranh dân gian Đông Hồ. Ảnh: BVHTTDL

Bảy năm, từ 2018 - 2025, nghiên cứu điền dã, bổ sung tư liệu, tham vấn cộng đồng, điều chỉnh phương án bảo vệ và nhiều vòng trao đổi với các chuyên gia trong nước và quốc tế. Hồ sơ được viết từ thực tế đời sống của làng tranh, từ những trăn trở rất cụ thể của nghệ nhân về sinh kế, truyền nghề, thị trường và tương lai của nghề.

Trong suốt quá trình ấy, nguyên tắc xuyên suốt là: cộng đồng là trung tâm của di sản. Mọi cam kết trong hồ sơ - từ đào tạo, truyền dạy, hỗ trợ sinh kế đến truyền thông, giáo dục di sản - đều phải dựa trên sự đồng thuận và tham gia thực chất của người dân làng Đông Hồ. Đây không chỉ là yêu cầu của UNESCO, mà còn là điều kiện tiên quyết để các chính sách bảo vệ di sản có thể đi vào cuộc sống.

Khi hồ sơ được xem xét tại Kỳ họp lần thứ 20, quyết định ghi danh không chỉ khép lại một chặng đường dài, mà đồng thời mở ra một giai đoạn mới với nhiều trách nhiệm nặng nề hơn. Bởi từ thời điểm đó, mọi cam kết trong hồ sơ trở thành nghĩa vụ quốc tế của Việt Nam.

Hướng tới phát triển bền vững

Việc được đưa vào danh sách Di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp đặt Đông Hồ vào vị thế đặc biệt: vừa cần những giải pháp tức thời để ngăn chặn nguy cơ mai một, vừa cần tầm nhìn dài hạn để di sản có thể tự đứng vững trong đời sống đương đại. Đây chính là thách thức lớn nhất của giai đoạn hậu ghi danh.

Trước mắt, Nhà nước cần ưu tiên hoàn thiện các cơ chế hỗ trợ cộng đồng nghệ nhân, từ đào tạo truyền nghề, hỗ trợ sinh kế, bảo tồn không gian làng nghề, đến việc đưa nghề tranh Đông Hồ vào giáo dục di sản trong trường học và các thiết chế văn hóa cơ sở. Những chính sách này không thể mang tính phong trào, mà phải được thể chế hóa rõ ràng, có nguồn lực bảo đảm và cơ chế giám sát hiệu quả.

Về lâu dài, Nghề làm tranh dân gian Đông Hồ cần được đặt trong tổng thể chiến lược phát triển văn hóa và công nghiệp sáng tạo. Di sản không thể sống mãi bằng trợ cấp, mà cần được trao cơ hội để thích ứng sáng tạo với đời sống hiện đại: từ mỹ thuật ứng dụng, thiết kế, du lịch văn hóa đến truyền thông số. Tuy nhiên, mọi sự sáng tạo ấy phải được dẫn dắt bởi các nguyên tắc bảo tồn, tránh làm biến dạng hoặc làm mất đi giá trị cốt lõi của di sản.

Ở góc độ lập pháp và giám sát, việc Nghề làm tranh dân gian Đông Hồ được UNESCO ghi danh đặt ra yêu cầu tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về di sản văn hóa, đặc biệt là các quy định liên quan đến di sản phi vật thể, cộng đồng chủ thể và cơ chế phối hợp đa ngành. Quốc hội, với vai trò là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, có trách nhiệm đồng hành cùng Chính phủ trong việc tạo dựng hành lang pháp lý và phân bổ nguồn lực phù hợp để các cam kết quốc tế được thực thi một cách nghiêm túc và hiệu quả.

PGS. TS. Bùi Hoài Sơn

Nguồn Đại Biểu Nhân Dân: https://daibieunhandan.vn/giu-nghe-lam-tranh-dan-gian-dong-ho-10401688.html