Gỡ 'điểm nghẽn' đất đai ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số
Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) đưa ra lấy ý kiến Nhân dân lần này có rất nhiều điểm mới, tiếp thu góp ý, phản biện xã hội của các chuyên gia, nhà khoa học và Nhân dân. Một trong những góp ý được quan tâm nhiều nhất chính là quản lý, quy hoạch kế hoạch sử dụng đất, nhất là gỡ 'điểm nghẽn' đất đai ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số…
Đề cập đến vấn đề về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, TS. KTS Đào Ngọc Nghiêm, Phó Chủ tịch Hội Quy hoạch phát triển đô thị Việt Nam cho rằng, so với Luật 2013, dự thảo Luật lần này đã có nhiều quy định cụ thể hơn và khoa học hơn. Tuy nhiên, về quy định quy hoạch sử dụng đất được phê duyệt trong năm đầu tiên của kỳ quy hoạch (khoản 5 điều 67) cần xem lại vì với khối lượng lớn thì quy định này chưa sát với nguồn lực thực tế.
Góp ý vào Điều 71 về rà soát, điều chỉnh quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, KTS Đào Ngọc Nghiêm bày tỏ sự thống nhất với các nguyên tắc về căn cứ để điều chỉnh đã nêu trong dự thảo. Tuy nhiên, trong giai đoạn tới thực hiện Nghị quyết 06-NQ/TW về phát triển đô thị bền vững, Nghị quyết 19-NQ/TW về nông nghiệp, nông dân, nông thôn sẽ có nhiều đột phá về phát triển đô thị và nông thôn nên cần cụ thể hơn về điều chỉnh định kỳ và điều chỉnh cục bộ với quy hoạch và nhất là với kế hoạch sử dụng đất cấp tỉnh, cấp huyện.
Cùng quan điểm với TS. KTS Đào Ngọc Nghiêm, ông Hoàng Đức Hậu, Ủy viên Hội đồng tư vấn Dân tộc, Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam cho rằng nội dung của dự thảo đã đề cập khá đầy đủ, toàn diện các vấn đề cơ bản liên quan đến công tác quản lý và sử dụng đất, ý nghĩa và tầm quan trọng của quản lý, sử dụng đất để phát triển bền vững đất nước. Tuy nhiên, trong các nội dung văn bản của dự thảo còn mang tính định hướng chung chung, nhiều nội dung quan trọng chưa được lượng hóa, thể chế hóa cụ thể để Nhân dân dễ hiểu, dễ thực hiện, đảm bảo tính pháp lý trong quá trình thực hiện Luật đất đai khi chính thức ban hành.
Ông Hoàng Đức Hậu lấy dẫn chứng, tại mục 1, Điều 24, Chương II đề cập đến trách nhiệm của Nhà nước về đất ở, đất sản xuất nông nghiệp đối với đồng bào dân tộc thiểu số có nêu: “có chính sách về đất ở, đất sinh hoạt cộng đồng cho đồng bào dân tộc thiểu số phù hợp với phong tục, tập quán, bản sắc văn hóa và điều kiện thức tế của từng vùng”. Đây là một chính sách quan trọng, thể hiện đường lối lãnh đạo của Đảng về chính sách dân tộc ở nước ta, từng bước nâng cao đời sống của đồng bào, đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng của đồng bào, tăng cường sự đoàn kết và niềm tin của đồng bào đối với đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước.
Tuy nhiên theo ông Hậu, trong thực tế, vấn đề đất và quản lý sử dụng đất còn nhiều vướng mắc, đất đai ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số rất đa dạng và cũng kèm theo nhiều yếu tố phức tạp, đất rộng nhưng đồi núi chiếm tỷ lệ cao, khó khăn về diện tích sử dụng, phục vụ đời sống mưu sinh và sinh hoạt cộng đồng, thậm chí quỹ đất thuận lợi để sử dụng rất hạn hẹp, nhiều địa bàn vùng đồng bào dân tộc thiểu số thiếu nơi sinh hoạt cộng đồng, các hoạt động lễ hội, cúng tế dịp xuân về thường diễn ra ở cánh đồng, bìa rừng... Nhiều giá trị văn hóa truyền thống đã và đang có nguy cơ rất cao về sự mai một, thậm chí mất đi bản sắc văn hóa; môi trường văn hóa cũng còn nhiều hạn chế do thiếu đất hoặc do phương pháp, cách thức quản lý đất chưa phù hợp...
Từ thực tế đó, ông Hoàng Đức Hậu đề nghị dự thảo Luật cần ghi cụ thể, rõ ràng chính sách này, ví dụ như: cấp huyện được quy hoạch, bố trí đất bao nhiêu để đảm bảo được việc sinh hoạt cộng đồng cho đồng bào và cấp xã, cấp thôn quy định như thế nào. Mặt khác, trước vấn đề đồng bào hiện nay còn thiếu đất để sản xuất nông nghiệp, có nơi, có địa bàn ở vùng cao, núi đá, đồng bào tự tạo đất để sản xuất theo hình thức thủ công, truyền thống... Ông Hậu lưu ý dự thảo luật cần quy định rõ việc sử dụng và quản lý đất nông nghiệp, sản xuất nông nghiệp đối với đồng bào dân tộc thiểu số.
Đề cập đến vấn đề thiếu đất sản xuất của đồng bào dân tộc thiểu số, ông Lương Văn Thuân, Chủ tịch UBND xã Lũng Cao, huyện Bá Thước, tỉnh Thanh Hóa cho rằng, việc thiếu đất sản xuất khiến đời sống nhiều hộ dân khu vực miền núi gặp nhiều khó khăn. Đây là một trong những “rào cản” trong thực hiện chương trình giảm nghèo bền vững của nhiều địa phương.
“Điều từ 188 đến 190 của dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) có nhắc đến 3 loại rừng (rừng sản xuất, rừng phòng hộ, rừng đặc dụng) quy định hộ gia đình, cá nhân khi được giao đất rừng được sử dụng kết hợp với mục đích kết hợp trồng cây hằng năm, cây dược liệu, chăn nuôi; du lịch sinh thái nghỉ dưỡng, giải trí; được xây dựng công trình kết cấu hạ tầng phục vụ bảo vệ và phát triển rừng theo quy định của pháp luật về lâm nghiệp. Tuy nhiên, ở các địa phương miền núi, vấn đề đất ở của người dân đang gặp nhiều khó khăn, do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu dẫn đến tình trạng sạt lở đất diễn ra nhiều. Vì vậy, trong quy định về đất rừng nên bổ sung thêm nội dung “nếu như đất rừng mà phù hợp với quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của địa phương thì cho phép địa phương được chuyển mục đích một phần đất rừng sang đất sản xuất” - ông Thuân đề xuất.
Bên cạnh đó, việc quy hoạch 3 loại rừng nói chung và đất rừng khu bảo tồn nói riêng cần bổ sung việc lấy ý kiến rộng rãi của người dân, đặc biệt là người dân nằm trong vùng quy hoạch đất khu bảo tồn. Cụ thể, ngoài những chính sách hiện hành đang thực hiện cần bổ sung, phân quyền UBND tỉnh được phép quy hoạch và xây dựng các khu tái định cư trên đất rừng ở những vị trí phụ cận phù hợp với không gian và không ảnh hưởng đến an ninh rừng nhằm giải quyết việc thiếu đất ở và cấp đất ở cho người dân. Từ đó giúp đồng bào dân tộc thiểu số có đất ở, đất sản xuất, yên tâm an cư lạc nghiệp, vươn lên thoát nghèo, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
Nhắc tới quy định cụ thể về các trường hợp giao đất, cho thuê đất thông qua đấu giá quyền sử dụng đất, đấu thầu lựa chọn chủ đầu tư dự án có sử dụng đất, ông Cầm Văn Đoàn, Ủy viên Hội đồng tư vấn Dân tộc, Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam cho rằng, các trường hợp được Nhà nước thu hồi giải phóng mặt bằng, các trường hợp nhà đầu tư phải thực hiện giải phóng mặt bằng hoặc thỏa thuận chuyển nhượng, thuê quyền sử dụng đất để thực hiện dự án đầu tư cần quy định rõ về giá trần để thỏa thuận, tránh các trường hợp bị nhà đầu tư ép giá, nhất là ở vùng miền núi và đồng bào dân tộc thiểu số.
Ông Cầm Văn Đoàn cũng cho rằng những mặt tiêu cực của cơ chế thị trường trong lĩnh vực đất đai bắt đầu xuất hiện ở vùng miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Do đó, cần có những biện pháp hạn chế những tác động tiêu cực này thông qua việc cụ thể hóa vào nội dung dự thảo Luật.
Thực tế cho thấy những năm trước đây chúng ta đã đẩy mạnh việc giao đất, giao rừng đến hộ gia đình vùng đồng bào dân tộc thiểu số để đồng bào được làm chủ mảnh đất của mình. Tuy nhiên, qua thực tế triển khai, hiệu quả sử dụng đất còn rất kém, bởi vậy, để nâng cao hiệu quả khai thác, sử dụng đất ở các vùng ngày thì rất cần có những cơ chế, chính sách mới, phù hợp với thực tế của từng vùng, có như vậy kinh tế vùng mới phát triển được.
Đối với công tác tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất, ông Đoàn lấy ví dụ từ việc tái định cư thủy điện Sơn La, thủy điện Hòa Bình, tái định cư ở các công trình thủy lợi lớn ở Tây Nguyên khi thực thế cho thấy đời sống của Nhân dân ở đây còn rất khó khăn, vất vả. Nhà nước hằng năm vẫn phải đầu tư hàng ngàn tỉ đồng để phát triển kinh tế - xã hội ở các vùng tái định cư này. Nhưng một số khu tái định cư không giữ chân được người dân khi điều kiện sinh sống không phù hợp với đồng bào; không phù hợp với phong tục, tập quán của họ...
“Hiện nay, cách tiếp cận của Luật Đất đai đối với việc thu hồi chỉ chú ý đến khía cạnh vật chất, ít chú ý đến khía cạnh văn hóa, khía cạnh tinh thần của những người bị thu hồi đất, gìn giữ những giá trị văn hóa của dân tộc. Trong dự thảo luật và các cơ chế, chính sách tái định cư cần đưa những vấn đề này vào”, ông Đoàn kiến nghị.