Gỡ điểm nghẽn thể chế, thúc đẩy thương mại hóa kết quả nghiên cứu

Nhiều kết quả nghiên cứu có tiềm năng vẫn đang dừng ở quy mô phòng thí nghiệm hoặc bài báo khoa học, chưa đi xa do vướng rào cản về cơ chế và nguồn lực.

Còn nhiều điểm nghẽn

Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Giáo sư, Tiến sĩ khoa học Hồ Đắc Lộc – Hiệu trưởng Trường Đại học Công nghệ Thành phố Hồ Chí Minh nhận định: Thương mại hóa các kết quả nghiên cứu khoa học có ý nghĩa sống còn đối với việc thúc đẩy hoạt động nghiên cứu và phát triển công nghệ hiện nay. Khi những phát minh, sáng kiến được chuyển thành sản phẩm, dịch vụ cụ thể, các nhà khoa học sẽ có thêm động lực vì nhìn thấy rõ đóng góp của mình đối với cộng đồng. Đây chính là quá trình chuyển hóa tri thức thành giá trị thực tiễn, giúp khoa học công nghệ trở thành động lực trọng tâm cho phát triển kinh tế – xã hội và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.

Không những thế, thông qua quá trình thương mại hóa, các trường đại học và viện nghiên cứu sẽ có thể rút ngắn khoảng cách từ phòng thí nghiệm đến cuộc sống, thúc đẩy đổi mới sáng tạo và hỗ trợ quá trình chuyển đổi số quốc gia một cách thiết thực.

Trong bối cảnh toàn cầu hóa và cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, việc đưa kết quả nghiên cứu ra thị trường một cách nhanh chóng còn giúp Việt Nam tận dụng cơ hội bứt phá trên bản đồ công nghệ thế giới. Các sản phẩm nghiên cứu được thương mại hóa thành công sẽ tạo ra những doanh nghiệp khởi nguồn (spin-off), các startup công nghệ, từ đó hình thành hệ sinh thái đổi mới sáng tạo năng động.

Đối với các trường đại học, thương mại hóa kết quả nghiên cứu còn mở ra nguồn lực tài chính mới cho hoạt động khoa học công nghệ, giảm dần sự phụ thuộc vào ngân sách nhà nước hoặc học phí, đồng thời nâng cao uy tín và vị thế của nhà trường.

 Giáo sư, Tiến sĩ khoa học Hồ Đắc Lộc – Hiệu trưởng Trường Đại học Công nghệ Thành phố Hồ Chí Minh. Ảnh: NTCC

Giáo sư, Tiến sĩ khoa học Hồ Đắc Lộc – Hiệu trưởng Trường Đại học Công nghệ Thành phố Hồ Chí Minh. Ảnh: NTCC

Theo quan điểm của Giáo sư Hồ Đắc Lộc, hiện nay tại Việt Nam, hoạt động này đã được quan tâm nhưng kết quả vẫn chưa đạt được như kỳ vọng bởi một số nguyên nhân.

Thứ nhất, hệ thống chính sách, pháp luật liên quan đến lĩnh vực này vẫn còn những bất cập. Các quy định về quản lý tài chính, thủ tục hành chính cho nghiên cứu và chuyển giao công nghệ còn phức tạp, chồng chéo, khiến các trường đại học và viện nghiên cứu gặp khó khăn khi tiếp cận nguồn kinh phí và triển khai dự án. Việc phân định quyền sở hữu trí tuệ và lợi ích giữa nhà nước - nhà trường - nhà khoa học chưa đủ rõ ràng, dẫn đến tâm lý e ngại khi đưa kết quả nghiên cứu ra thị trường.

“Chẳng hạn như nhiều kết quả nghiên cứu sử dụng ngân sách nhà nước được xem là tài sản công, nhưng chưa có cơ chế linh hoạt để đơn vị chủ trì hoặc tác giả sở hữu hay khai thác thương mại một cách hiệu quả. Chưa kể nguồn lực tài chính dành cho nghiên cứu và phát triển còn hạn hẹp, ngân sách nhà nước có hạn trong khi các trường đại học ngoài công lập cũng chủ yếu dựa vào học phí, chưa có nhiều quỹ đầu tư cho giai đoạn thương mại hóa”, thầy Lộc nêu dẫn chứng.

Thứ hai, mối liên kết giữa nhà nghiên cứu và doanh nghiệp hiện nay vẫn còn lỏng lẻo, chưa hình thành được cơ chế hợp tác hiệu quả và bền vững. Trên thực tế, nhiều doanh nghiệp vẫn giữ tâm lý thận trọng khi đầu tư vào các hoạt động nghiên cứu tại trường đại học, đặc biệt trong bối cảnh lợi ích kinh tế từ các dự án nghiên cứu chưa rõ ràng và quy mô triển khai còn nhỏ.

Bên cạnh đó, sự thiếu hụt các quỹ hỗ trợ, quỹ đầu tư mạo hiểm cũng đang là rào cản lớn đối với quá trình ươm tạo và phát triển các sản phẩm công nghệ mới. Vấn đề về cơ sở vật chất tại nhiều trường đại học, nhất là những đơn vị chưa được đầu tư đúng mức càng làm cho việc triển khai nghiên cứu ứng dụng ở quy mô thực tế trở nên khó khăn, ảnh hưởng đến khả năng hoàn thiện sản phẩm.

Trong khi đó, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Đình Lâm – Chủ tịch Hội đồng trường, Trường Đại học Bách khoa (Đại học Đà Nẵng) cho rằng: Thực tế cho thấy, sản phẩm cụ thể của đề tài, dự án, chương trình khoa học và công nghệ các cấp (gọi chung là đề tài) thường bao gồm công bố khoa học đăng trên tạp chí trong và ngoài nước có uy tín; báo cáo trình bày tại hội thảo chuyên ngành; sản phẩm phục vụ đào tạo; văn bằng sở hữu trí tuệ như sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp...; sự tham gia hoặc tiếp nhận kết quả nghiên cứu từ phía doanh nghiệp, tổ chức để đảm bảo tính ứng dụng của đề tài.

Thế nhưng, tỷ lệ đề tài có sản phẩm được thương mại hóa như thành lập doanh nghiệp khoa học công nghệ, doanh nghiệp spin-off hoặc đưa sản phẩm ra thị trường vẫn còn rất thấp, gần như không đáng kể. Do đó, câu hỏi đặt ra ở thời điểm hiện tại là làm thế nào để giai đoạn thương mại hóa được tích hợp và triển khai ngay trong và sau quá trình thực hiện đề tài nghiên cứu?

Theo thầy Lâm, để thương mại hóa sản phẩm nghiên cứu không chỉ là một lựa chọn mà trở thành yêu cầu bắt buộc và khả thi, đặc biệt đối với các đề tài ứng dụng theo định hướng thị trường thì cần phải triển khai đồng bộ ba nhóm giải pháp trọng tâm: thể chế, quy trình và hệ thống hỗ trợ.

Vì vậy cần ban hành quy định rõ ràng về yêu cầu đầu ra của các đề tài, trong đó xác định cụ thể sản phẩm hướng tới thương mại hóa, đánh giá tác động thị trường và xây dựng phương án khai thác. Đồng thời quy định rõ ràng trách nhiệm của các bên liên quan cũng như cơ chế phân chia lợi nhuận từ hoạt động thương mại hóa giữa nhà trường, nhà khoa học và đơn vị đầu tư.

Và ưu tiên xét duyệt và cấp kinh phí cho các đề tài có tiềm năng ứng dụng cao, có khả năng chuyển giao công nghệ, tạo ra sản phẩm thương mại hoặc phát triển thành doanh nghiệp spin-off. Đồng thời xây dựng và phát triển trung tâm đổi mới sáng tạo, văn phòng chuyển giao công nghệ, đơn vị định giá và cấp phép công nghệ hoạt động chuyên nghiệp. Các đơn vị này sẽ đóng vai trò hỗ trợ giảng viên, nhà nghiên cứu trong các khâu như hoàn thiện sản phẩm, định giá công nghệ, tìm kiếm đối tác, đưa sản phẩm ra thị trường.

Về phía doanh nghiệp, cần tăng cường niềm tin và chủ động đặt hàng nghiên cứu cho các trường đại học và viện nghiên cứu. Việc hợp tác nên được bắt đầu từ khâu xây dựng đề tài thông qua mô hình "đặt hàng – đồng tài trợ" giữa doanh nghiệp và nhà trường. Các doanh nghiệp cần có bộ phận R&D đủ mạnh để phối hợp, đánh giá và đồng hành cùng nhóm nghiên cứu trong suốt quá trình triển khai.

 Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Đình Lâm – Chủ tịch Hội đồng trường, Trường Đại học Bách khoa (Đại học Đà Nẵng). Ảnh: NTCC

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Đình Lâm – Chủ tịch Hội đồng trường, Trường Đại học Bách khoa (Đại học Đà Nẵng). Ảnh: NTCC

Theo chia sẻ của thầy Lâm, khi các giải pháp nêu trên được triển khai một cách đồng bộ, quá trình thương mại hóa kết quả nghiên cứu khoa học hứa hẹn sẽ có những bước tiến đáng kể. Thế nhưng khi đó, điểm nghẽn đầu tiên được dự báo sẽ xuất hiện ngay trong nội bộ trường đại học là hạn chế về năng lực triển khai.

Cụ thể, hiện nay nhiều cơ sở giáo dục đại học còn thiếu đội ngũ chuyên trách có đủ kiến thức và kỹ năng tổng hợp về công nghệ, pháp lý và thị trường. Trong khi đó, đội ngũ giảng viên, nhà khoa học tuy có chuyên môn sâu về nghiên cứu khoa học và công nghệ, nhưng lại thiếu kỹ năng cần thiết trong khởi nghiệp, quản trị dự án và kết nối với doanh nghiệp.

Việc thiếu hụt đội ngũ chuyên môn, đặc biệt là các chuyên gia trong lĩnh vực chuyển giao công nghệ, luật sở hữu trí tuệ và phát triển thị trường đang khiến cho trường đại học khó có thể đưa kết quả nghiên cứu ra thị trường. Hay nói cách khác, nếu không có lực lượng này, quá trình thương mại hóa gần như không thể thực hiện được.

“Giảng viên và nhà khoa học tuy giỏi chuyên môn trong các lĩnh vực khoa học, công nghệ và kỹ thuật, nhưng thường không được trang bị đầy đủ kiến thức về thương mại hóa, định giá công nghệ, cũng như kỹ năng xác định khách hàng mục tiêu. Trong khi đó, nếu không có chuyên gia đồng hành để điều chỉnh, tối ưu công nghệ theo nhu cầu thực tế, thì dù sản phẩm nghiên cứu có giá trị cao về mặt học thuật, vẫn có nguy cơ không phù hợp hoặc khó tiếp cận với thị trường.

Bên cạnh đó, nhà nghiên cứu cũng thường thiếu kiến thức và kỹ năng pháp lý cần thiết để bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ đối với sản phẩm của mình. Điều này dễ dẫn đến tình trạng mất quyền bảo hộ, thậm chí để lộ ý tưởng, khiến sản phẩm không có cơ sở pháp lý rõ ràng để đàm phán với doanh nghiệp hoặc nhà đầu tư. Do đó, nếu thiếu đội ngũ chuyên môn hỗ trợ về chuyển giao công nghệ, trường đại học sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong việc khai thác giá trị thực tiễn của các sản phẩm nghiên cứu, đặc biệt là các sản phẩm mang tính ứng dụng cao”, thầy Lâm cho hay.

Cần hành lang pháp lý và đội ngũ “cầu nối” chuyên nghiệp

Không thể phủ nhận rằng, trong điều kiện thiếu vắng các cơ chế hỗ trợ phù hợp, trường đại học đang đối mặt với nhiều thách thức lớn trong việc chuyển giao và đưa các kết quả nghiên cứu khoa học ra thị trường.

Theo Giáo sư Hồ Đắc Lộc, việc thiếu các quy định rõ ràng về hoạt động thương mại hóa đang làm suy giảm động lực tham gia của cả nhà trường lẫn đội ngũ nhà khoa học. Khi một công trình nghiên cứu không mang lại quyền lợi tương xứng cho nhóm thực hiện hoặc đơn vị chủ trì, việc tiếp tục đầu tư công sức để đưa sản phẩm ra thị trường sẽ khó được duy trì.

Thực tế hiện nay, phần lớn lợi nhuận thu được từ hoạt động chuyển giao công nghệ sử dụng ngân sách nhà nước phải nộp lại cho ngân sách theo quy định, khiến nhà nghiên cứu gần như không được hưởng thành quả lao động của chính mình. Điều này vô hình khiến nhiều nhà khoa học chùn bước và kết quả là không ít công trình chỉ dừng lại trên giấy, thay vì được phát triển thành sản phẩm hữu ích phục vụ xã hội.

Bên cạnh đó, việc thiếu cơ chế hỗ trợ đồng nghĩa với thiếu nguồn lực cho giai đoạn ươm tạo và hoàn thiện sản phẩm. Trường đại học có thể không có kinh phí để bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, thử nghiệm mở rộng quy mô hay điều chỉnh công nghệ cho phù hợp với thị trường. Mặt khác, khả năng kết nối với doanh nghiệp cũng bị hạn chế khi cơ sở đào tạo không được trao quyền chủ động đủ mức, phải phụ thuộc vào thủ tục hành chính rườm rà. Điều này càng làm gia tăng khoảng cách giữa nghiên cứu và ứng dụng, khiến các trường lúng túng trong vai trò trung gian kết nối cung – cầu công nghệ.

Đáng lo ngại hơn, sự thiếu hụt đội ngũ chuyên môn trong các lĩnh vực như chuyển giao công nghệ, sở hữu trí tuệ và phát triển thị trường đang tạo ra khoảng trống lớn trong hệ sinh thái đổi mới sáng tạo tại các trường đại học. Nếu không có chuyên gia pháp lý am hiểu luật sở hữu trí tuệ, việc đăng ký sáng chế, bảo vệ quyền lợi cho nhà khoa học hay thương thảo hợp đồng chuyển giao sẽ gặp nhiều trở ngại. Đồng thời, nếu thiếu vắng chuyên gia phát triển thị trường và khởi nghiệp cũng khiến các sản phẩm nghiên cứu thiếu định hướng phù hợp với nhu cầu thực tế hoặc không thể xây dựng được mô hình kinh doanh khả thi.

Khi thiếu đội ngũ "cầu nối" chuyên nghiệp, nhà khoa học buộc phải tự xoay xở trong những lĩnh vực nằm ngoài chuyên môn, dẫn đến hiệu quả thương mại hóa rất thấp. Việc định giá công nghệ vốn là một quy trình phức tạp sẽ càng khó thực hiện nếu không có tổ chức tư vấn hỗ trợ. Và sản phẩm nghiên cứu sẽ khó tiếp cận thị trường nếu thiếu người dẫn dắt trong phát triển kinh doanh.

Tất cả những hạn chế này không chỉ làm giảm khả năng thương mại hóa kết quả nghiên cứu mà còn gây lãng phí nguồn lực trí tuệ và thời gian đầu tư của các trường đại học.

Để tháo gỡ những rào cản này, thầy Lộc cho rằng cần có sự hỗ trợ mạnh mẽ và nhất quán từ phía Nhà nước.

 Hiện còn thiếu các quy định rõ ràng về hoạt động thương mại hóa. Ảnh: HUTECH

Hiện còn thiếu các quy định rõ ràng về hoạt động thương mại hóa. Ảnh: HUTECH

Đầu tiên, cần hoàn thiện hành lang pháp lý về chuyển giao công nghệ qua việc rà soát, bổ sung các quy định pháp luật theo hướng thống nhất và thông thoáng hơn. Đặc biệt, nên có cơ chế thí điểm giao quyền sở hữu, quyền sử dụng kết quả nghiên cứu cho nhà trường và nhà khoa học đối với đề tài sử dụng ngân sách nhà nước. Khi trường đại học hoặc nhóm tác giả được quyền sở hữu trí tuệ đối với sản phẩm nghiên cứu của mình, họ sẽ chủ động hơn trong việc kêu gọi đầu tư và hợp tác triển khai.

Cần quy định rõ ràng việc phân chia lợi nhuận từ thương mại hóa kết quả nghiên cứu theo hướng đảm bảo lợi ích thỏa đáng cho tác giả và đơn vị nghiên cứu, thống nhất giữa Luật Khoa học & Công nghệ và Luật Sở hữu trí tuệ, tránh tình trạng chồng chéo như hiện nay.

Thứ hai, nhà nước nên hình thành các quỹ hỗ trợ thương mại hóa ở tầm quốc gia hoặc cấp bộ, cấp địa phương. Các quỹ này tài trợ hoặc cho vay ưu đãi để các nhóm nghiên cứu hoàn thiện sản phẩm, thử nghiệm thị trường, tiến hành thủ tục đăng ký sở hữu trí tuệ. Đồng thời, có thể ưu đãi thuế, tín dụng cho doanh nghiệp khi đầu tư cho R&D tại trường đại học hoặc tiếp nhận chuyển giao công nghệ từ viện, trường.

Thứ ba, Nhà nước nên khuyến khích và hỗ trợ trường đại học thành lập trung tâm khởi nghiệp sáng tạo, trung tâm chuyển giao công nghệ trực thuộc trường. Các trung tâm này cần được đầu tư cả về cơ sở vật chất lẫn con người, với đội ngũ chuyên gia về quản trị công nghệ, pháp lý, tài chính. Có thể xem xét cơ chế biệt phái hoặc mời gọi chuyên gia từ doanh nghiệp, viện nghiên cứu về làm việc tại trường đại học nhằm tăng cường năng lực cho đội ngũ hỗ trợ.

Bên cạnh đó, xây dựng mạng lưới tư vấn về pháp lý, thị trường, định giá tài sản trí tuệ… để các trường, đặc biệt trường còn hạn chế nguồn lực có thể sử dụng chung dịch vụ với chi phí phù hợp.

Ngoài ra, cần thúc đẩy hình thức liên kết viện – trường – doanh nghiệp. Khi đó, Nhà nước đóng vai trò trung gian tạo dựng các diễn đàn kết nối cung cầu công nghệ, các sàn giao dịch công nghệ nơi trường đại học giới thiệu sản phẩm nghiên cứu và doanh nghiệp tìm kiếm giải pháp kỹ thuật. Mô hình hợp tác 3 bên Nhà nước – trường đại học – doanh nghiệp nên được khuyến khích thông qua các dự án.

Đặc biệt, nên trao quyền tự chủ và khuyến khích văn hóa khởi nghiệp trong trường đại học. Tiếp tục đẩy mạnh chính sách giao quyền tự chủ cho các cơ sở giáo dục đại học, trong đó có tự chủ về hoạt động nghiên cứu khoa học. Khi được tự chủ, các trường sẽ linh hoạt hơn trong việc sử dụng nguồn thu từ hoạt động khoa học công nghệ để tái đầu tư, thưởng cho nhóm nghiên cứu, hoặc góp vốn vào doanh nghiệp khởi nghiệp. Nhà nước có thể thí điểm cho phép giảng viên, nhà khoa học góp vốn bằng tài sản trí tuệ hoặc trực tiếp tham gia điều hành doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo mà không vi phạm quy định công chức.

Song song đó, cần có giải thưởng, tôn vinh các trường đại học và nhà khoa học có thành tích xuất sắc trong chuyển giao công nghệ, qua đó xây dựng văn hóa đổi mới sáng tạo và tinh thần doanh nhân trong giới học thuật.

 Cần bổ sung quy định bắt buộc tích hợp mục tiêu thương mại hóa vào các đề tài nghiên cứu định hướng ứng dụng. Ảnh: Trường Đại học Bách khoa, Đại học Đà Nẵng

Cần bổ sung quy định bắt buộc tích hợp mục tiêu thương mại hóa vào các đề tài nghiên cứu định hướng ứng dụng. Ảnh: Trường Đại học Bách khoa, Đại học Đà Nẵng

Từ thực tiễn của Trường Đại học Bách khoa (Đại học Đà Nẵng) và nhiều cơ sở giáo dục đại học, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Đình Lâm cho rằng, nhà nước cần bổ sung quy định bắt buộc tích hợp mục tiêu thương mại hóa vào các đề tài nghiên cứu định hướng ứng dụng, đặc biệt với các nhiệm vụ cấp nhà nước. Các đề tài cấp bộ, cấp trường cũng cần xác định rõ sản phẩm đầu ra có khả năng ứng dụng hoặc chuyển giao.

Thầy Lâm đề xuất sửa đổi Luật Sở hữu trí tuệ theo hướng công nhận quyền sở hữu kết quả nghiên cứu cho trường đại học, giúp nhà trường dễ dàng khai thác, cấp phép hoặc góp vốn bằng tài sản trí tuệ. Đồng thời, cần đơn giản hóa thủ tục thành lập doanh nghiệp khoa học công nghệ trong trường theo mô hình spin-off, cho phép nhà trường và nhà khoa học cùng góp vốn.

Một giải pháp quan trọng khác là thành lập Quỹ hỗ trợ thương mại hóa kết quả nghiên cứu, hỗ trợ kinh phí cho ươm tạo công nghệ, đăng ký sở hữu trí tuệ, tư vấn thị trường và xúc tiến đầu tư. Cho phép trích kinh phí từ đề tài để hoàn thiện sản phẩm, phát triển mẫu thương mại. Doanh nghiệp hợp tác nghiên cứu R&D hoặc nhận chuyển giao công nghệ từ trường cũng cần được ưu đãi.

Cuối cùng, thầy Lâm nhấn mạnh, cần tăng cường kết nối với hệ sinh thái khởi nghiệp trong và ngoài nước, tạo điều kiện để giảng viên, sinh viên sử dụng kết quả nghiên cứu để khởi nghiệp. Cùng với đó là đầu tư phát triển trung tâm chuyển giao công nghệ trong trường với cơ chế tài chính đặc thù, đủ năng lực tuyển dụng chuyên gia về thị trường, sở hữu trí tuệ và quản lý công nghệ.

ĐÀO HIỀN

Nguồn Giáo Dục VN: https://giaoduc.net.vn/go-diem-nghen-the-che-thuc-day-thuong-mai-hoa-ket-qua-nghien-cuu-post252189.gd