Gỡ nút thắt tín dụng xanh

Theo giới chuyên gia, tín dụng xanh đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp nguồn vốn cần thiết nhằm đạt được các mục tiêu phát triển bền vững, đặc biệt là những vấn đề liên quan đến môi trường và khí hậu. Phát triển tín dụng xanh sẽ góp phần phát triển bền vững kinh tế xanh.

Tín dụng xanh giúp phát triển các dự án tái tạo năng lượng, tiết kiệm năng lượng và công nghệ sạch. Ảnh: Hà An.

Tín dụng xanh giúp phát triển các dự án tái tạo năng lượng, tiết kiệm năng lượng và công nghệ sạch. Ảnh: Hà An.

Những nút thắt

Thị trường tài chính xanh ngày càng phát triển mạnh mẽ, trong đó tín dụng xanh, trái phiếu xanh là hai kênh tài chính xanh lớn nhất, có vai trò quyết định cho đầu tư xanh, bảo vệ môi trường và chống biến đổi khí hậu. Dự kiến, nguồn tài chính này sẽ tiếp tục gia tăng mạnh mẽ trong thời gian tới, nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao cho mục tiêu đạt phát thải ròng bằng 0 vào giữa thế kỷ XXI.

Ở Việt Nam, Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 đã bổ sung quy định về tín dụng xanh, trái phiếu xanh và được cụ thể hóa tại Nghị định số 08/2022/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết về lộ trình, cơ chế khuyến khích cấp tín dụng xanh và phát hành trái phiếu xanh. Trong đó, Chính phủ giao Bộ Tài nguyên và Môi trường xây dựng, cũng như trình Thủ tướng Chính phủ ban hành tiêu chí môi trường và việc xác nhận đối với dự án được cấp tín dụng xanh, phát hành trái phiếu xanh, gọi tắt là danh mục phân loại xanh.

Bà Phạm Thị Thanh Tùng - Phó Vụ trưởng Vụ Tín dụng các ngành kinh tế, Ngân hàng Nhà nước cho biết, thời gian qua, nhận thức của hệ thống ngân hàng đã có sự chuyển biến rõ rệt, các tổ chức tín dụng tích cực tham gia cấp tín dụng cho những ngành, lĩnh vực xanh. Trong 7 năm qua (2017 - 2023), dư nợ cấp tín dụng xanh của hệ thống có mức tăng trưởng bình quân đạt hơn 22%/năm. Đến ngày 31/12/2023, đã có 47 tổ chức tín dụng phát sinh dư nợ tín dụng xanh đạt 620.984 tỷ đồng, tăng 24% so với cuối năm 2022, chiếm tỷ trọng khoảng 4,5% tổng dư nợ toàn nền kinh tế, tập trung chủ yếu vào các ngành năng lượng tái tạo, năng lượng sạch (chiếm tỷ trọng gần 45%) và nông nghiệp xanh (gần 30%).

Bên cạnh những kết quả đạt được, thì việc triển khai các giải pháp nhằm thúc đẩy tín dụng xanh hiện nay còn gặp một số khó khăn. Bà Tùng cho rằng, một trong những nguyên nhân kìm hãm sự phát triển của thị trường tín dụng xanh chính là khung pháp lý chưa hoàn thiện, còn thiếu các quy định, tiêu chí môi trường và danh mục phân loại xanh ở cấp quốc gia. Danh mục phân loại xanh là căn cứ để Ngân hàng Nhà nước đánh giá được hiệu quả của các chính sách, giải pháp trong chính sách tín dụng góp phần thực hiện mục tiêu tăng trưởng xanh quốc gia. Đây cũng là cơ sở quan trọng để các tổ chức tín dụng xác định định mức, quy mô đầu tư, xây dựng và triển khai các chính sách, sản phẩm, dịch vụ ngân hàng phù hợp.

Đề xuất danh mục và bộ tiêu chí xanh

Mới đây, nhóm nghiên cứu của Trường Đại học Kinh tế quốc dân đề xuất 3 kiến nghị nhằm phát triển tín dụng xanh hướng tới nền kinh tế xanh bền vững. Đầu tiên, cần hoàn thiện khung pháp lý, cụ thể hóa các tiêu chí xác định dự án xanh. Cụ thể, xây dựng hướng dẫn về danh mục xanh, tiêu chí xác định dự án như thế nào là xanh và cần có đánh giá phù hợp với từng phân ngành kinh tế của Việt Nam. Đây là cơ sở để các tổ chức tín dụng lựa chọn, thẩm định, đánh giá và giám sát khi thực hiện cấp tín dụng xanh cho các dự án.

Hiện nguồn vốn cho các hoạt động xanh của ngân hàng còn khá hạn chế. Do vậy, cần có chính sách hỗ trợ các tổ chức tín dụng tiếp cận những nguồn vốn dài hạn với lãi suất ưu đãi, đồng thời kêu gọi nguồn lực quốc tế cho việc cung ứng vốn cho các dự án xanh. Bên cạnh đó, cần xây dựng lộ trình cụ thể cho việc thực hiện những cơ chế, chính sách hỗ trợ các lĩnh vực, ngành xanh về thuế, phí, vốn, kỹ thuật, thị trường, quy hoạch, chiến lược phát triển... của từng ngành, lĩnh vực một cách đồng bộ nhằm thu hút và phát huy hiệu quả của nguồn vốn tín dụng xanh. Cơ chế hỗ trợ có thể thực hiện là cho phép bảo lãnh các khoản tín dụng xanh.

Chính phủ cũng có thể nghiên cứu thành lập Quỹ hỗ trợ phát triển bền vững cho các dự án xanh. Trên cơ sở tham khảo kinh nghiệm của các nước và rà soát lại hệ thống chính sách hiện hành, để đảm bảo tập trung, tránh phân bổ nguồn lực dàn trải.

Tiếp đó, nhóm nghiên cứu còn nhấn mạnh việc đảm bảo an toàn tài chính của các hoạt động tín dụng xanh. Theo đó, các tổ chức tín dụng cần hoàn thiện các tiêu chuẩn theo Basel III, đặc biệt là những tiêu chí về quản trị rủi ro do các dự án được tài trợ bởi tín dụng xanh. Bởi thời gian đầu tư vào những dự án xanh thường dài, doanh nghiệp phải đối mặt với mức độ rủi ro cao hơn các dự án thông thường khác do tính chuyên biệt và độ phức tạp.

Cần đẩy nhanh việc ban hành quy định hướng dẫn các tổ chức tín dụng quản lý rủi ro về môi trường liên quan tới công tác cấp tín dụng xanh. Đồng thời, tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện Sổ tay hướng dẫn đánh giá rủi ro môi trường xã hội trong hoạt động cấp tín dụng của các tổ chức tín dụng. Ngân hàng Nhà nước nghiên cứu bổ sung chế tài xử phạt đối với các ngân hàng, tổ chức tín dụng lợi dụng tín dụng xanh để cấp vốn cho các dự án không đạt yêu cầu.

Gắn chính sách về phát triển xanh trong định hướng và chiến lược kế hoạch kinh doanh của tổ chức tín dụng; xây dựng các chương trình tín dụng xanh theo chiến lược và hướng dẫn chung từ Ngân hàng Nhà nước. Tăng cường nhận thức của đội ngũ cán bộ về công tác tín dụng xanh cũng là một vấn đề cần được chú trọng.

Hà An

Nguồn Đại Đoàn Kết: https://daidoanket.vn/go-nut-that-tin-dung-xanh-10285129.html