Gỡ rào cản phi thuế quan: Con đường kiến tạo thịnh vượng chung cho ASEAN
Việc tận dụng hiệu quả hơn các hiệp định hiện có như hiệp định thương mại tự do, cơ chế tham vấn, quy chuẩn quốc tế và cải thiện những yếu tố trong tầm tay được xem là chìa khóa để vượt qua khó khăn.

Hội thảo “Gỡ rào cản phi thuế quan vì thịnh vượng chung ASEAN” do báo Tài chính-Đầu tư phối hợp với Đại sứ quán New Zealand tổ chức, ngày 27/6. (Ảnh: Vietnam+)
Giữa bối cảnh kinh tế toàn cầu đầy biến động, những “chướng ngại vật vô hình” mang tên rào cản phi thuế quan lại nổi lên như một thách thức lớn, kìm hãm tiềm năng thương mại và sự thịnh vượng chung của khu vực ASEAN.
Bởi vậy, việc tận dụng hiệu quả hơn các khuôn khổ hiện có như hiệp định thương mại tự do, cơ chế tham vấn, quy chuẩn quốc tế và cải thiện những yếu tố trong tầm tay được xem là chìa khóa để vượt qua khó khăn.
Thông tin trên được đưa ra tại Hội thảo “Gỡ rào cản phi thuế quan vì thịnh vượng chung ASEAN” do báo Tài chính-Đầu tư phối hợp với Đại sứ quán New Zealand tổ chức ngày 27/6.
Cái giá phải trả hàng chục tỷ USD
Ông Lê Trọng Minh, Phó tổng biên tập Báo Tài chính-Đầu tư cho hay tại Hội nghị cấp cao ASEAN 46 diễn ra cách đây một tháng, các nhà lãnh đạo khu vực đã tái khẳng định định hướng chiến lược đến năm 2045, trong đó nhấn mạnh việc giảm thiểu các rào cản phi thuế quan không cần thiết, thúc đẩy số hóa hải quan và hài hòa tiêu chuẩn. Theo đó, nhiều sáng kiến quan trọng như nâng cấp hiệp định thương mại hàng hóa ASEAN vào cuối năm nay hay cam kết không để các hiệp định song phương ảnh hưởng tiêu cực đến lợi ích chung của cộng đồng đã được đưa ra.
Theo ông Minh, đây là cơ hội nhưng cũng là thách thức lớn đối với các quốc gia thành viên ASEAN. Hiện tại, dù thuế quan nội khối ASEAN đã giảm xuống dưới 1% song các rào cản phi thuế quan vẫn là một trở ngại lớn. Thống kê của Ngân hàng Thế giới chỉ ra các biện pháp kiểm dịch động thực vật và an toàn thực phẩm cùng rào cản kỹ thuật đối với thương mại chiếm tới 75% các loại rào cản phi thuế quan được áp dụng.
Mục tiêu của các biện pháp này là chính đáng, nhằm bảo vệ sức khỏe cộng đồng, môi trường và sản xuất nội địa. Song, ông Minh cho biết những yêu cầu này cũng trở thành rào cản vô hình nếu không được thiết kế minh bạch, hài hòa và có khả năng dự báo. Theo đó, chi phí tuân thủ đè nặng lên doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ, do các doanh nghiệp xuất khẩu phải kiểm định lại sản phẩm theo tiêu chuẩn riêng của từng nước, hay đối mặt với khó khăn do thiếu thông tin về các thay đổi kỹ thuật, các chứng nhận đặc thù (như thị trường Halal).
Dẫn chứng con số cụ thể, ông Minh cho hay theo Hội nghị Liên hiệp quốc về thương mại và phát triển, chi phí thương mại do rào cản phi thuế quan chiếm đến 2-4% giá trị hàng hóa. Bên cạnh đó, nghiên cứu của Dự án phân tích Thương mại toàn cầu chỉ ra chỉ cần giảm 10% chi phí do rào cản phi thuế quan, ASEAN có thể thu về mức tăng trưởng thương mại 3-4%, tương đương hàng chục tỷ USD. Theo ông Minh, việc tháo gỡ rào cản phi thuế quan đúng cách sẽ giúp giảm chi phí giao dịch, tạo điều kiện cho doanh nghiệp nhỏ và vừa tiếp cận thị trường khu vực, thúc đẩy đầu tư nội khối và tăng cường niềm tin người tiêu dùng. Song, tháo gỡ không có nghĩa là mở cửa vô điều kiện mà cần loại bỏ các biện pháp bất hợp lý, hài hòa hóa tiêu chuẩn, tăng cường minh bạch và số hóa thủ tục hành chính.

Ông Lê Trọng Minh, Phó tổng biên tập Báo Tài chính-Đầu tư đã chia sẻ những thách thức từ rào cản phi thuế quan đối với cộng đồng doanh nghiệp. (Ảnh: Vietnam+)
Để làm rõ hơn tính phức tạp của rào cản phi thuế quan, bà Phương Nguyễn - Luật sư điều hành, Công ty luật KPMG tại Việt Nam chỉ ra một câu chuyện điển hình trong tranh chấp thương mại giữa Indonesia và Liên minh châu Âu (EU) liên quan đến dầu cọ. Cụ thể, EU đã ban hành các chỉ thị thúc đẩy năng lượng tái tạo, trong đó đánh giá dầu cọ có nguy cơ cao gây phá rừng và đặt mục tiêu loại bỏ dần trước năm 2030. Điều này đã sau đó đã cản trở nghiêm trọng hoạt động xuất khẩu của Indonesia (quốc gia sản xuất dầu cọ lớn nhất thế giới). Bà Phương cho biết dù WTO thừa nhận lo ngại môi trường của EU là hợp pháp, nhưng cũng chỉ ra các biện pháp này áp dụng không nhất quán và gây gánh nặng không cân xứng cho Indonesia.
Theo bà Phương Nguyễn, khoảng 58% thương mại khu vực châu Á-Thái bình dương chịu ảnh hưởng bởi rào cản phi thuế quan. Tại Việt Nam, doanh nghiệp nhập khẩu cũng thường vướng phải thời gian cấp phép kéo dài, chi phí lưu kho tăng cao, trong khi doanh nghiệp xuất khẩu đối mặt với việc chứng nhận sản phẩm không được công nhận, phải kiểm tra lại từ đầu. Để giải quyết, bà đề xuất ASEAN cần tăng cường minh bạch thông tin qua cổng thông tin thương mại của khu vực và áp dụng các nguyên tắc rõ ràng khi ban hành rào cản phi thuế quan mới. Mỗi quốc gia cần đơn giản hóa quy trình cấp phép, tăng cường công nhận lẫn nhau về tiêu chuẩn và thúc đẩy số hóa.
Bà Lê Hằng, Phó tổng thư ký Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam chia sẻ kinh nghiệm về những cuộc chiến với giấy phép và chứng nhận, trong đó rào cản lớn nhất là các biện pháp kiểm dịch động thực vật, rào cản kỹ thuật đối với thương mại và yêu cầu giấy phép nhập khẩu.
“Các biện pháp này có thể làm chậm trễ lô hàng, tăng chi phí và tạo ra sự không chắc chắn cho các nhà xuất khẩu,” bà Hằng nói.
Theo bà Hằng, chi phí xét nghiệm dư lượng kháng sinh trong tôm có thể tốn 100-500 USD/mẫu, kiểm tra kiểm dịch tại cảng làm chậm lô hàng từ 3-5 ngày, yêu cầu ghi nhãn riêng cho từng thị trường có thể tốn 5.000-20.000 USD cho mỗi dòng sản phẩm. Với các thị trường hồi giáo chiếm 40% dân số ASEAN, chứng nhận Halal là bắt buộc. Quy trình xin chứng nhận Halal có thể mất từ 1-6 tháng và chi phí ban đầu có thể lên tới 2.000-3.000 USD cho một nhà máy, chưa kể chi phí đầu tư nâng cấp cơ sở.
“Chìa khóa” tháo gỡ nút thắt
Từ góc độ đối tác chiến lược của ASEAN, bà Caroline Beresford-Đại Sứ New Zealand tại Việt Nam khẳng định việc tháo gỡ rào cản phi thuế quan cần được đặt ở vị trí trung tâm trong nỗ lực hội nhập. Theo bà, hiện có tới hơn hai triệu biện pháp phi thuế quan đang có hiệu lực và tác động tới 78% giá trị thương mại thế giới, gây tổn thất tới 2,4 nghìn tỷ NZD (khoảng 1,46 nghìn tỷ USD) trong năm 2019. Do đó, các biện pháp này được thực hiện một cách không phù hợp, bao gồm việc hạn chế thương mại có thể trở thành các rào cản phi thuế quan và cản trở các dòng chảy hàng hóa và dịch vụ tự do.
Bà Caroline Beresford cho rằng dù Chính phủ các nước đã có những bước tiến đáng kể, nhưng vẫn còn nhiều việc phải làm và chỉ có thể thành công với nỗ lực tập thể. Trong đó, tiếng nói của cộng đồng doanh nghiệp đóng vai trò thiết yếu. Việc chia sẻ kinh nghiệm thực tế sẽ giúp xác định khoảng trống chính sách và các nhà hoạch định chính sách cần lắng nghe để biến chúng thành các quy định minh bạch, hiệu quả.

Việc hạn chế thương mại có thể trở thành các rào cản phi thuế quan và cản trở các dòng chảy hàng hóa và dịch vụ tự do. (Ảnh: Vietnam+)
Chia sẻ kinh nghiệm từ New Zealand, bà Caroline Beresford cho biết Chính phủ luôn hợp tác chặt chẽ với doanh nghiệp. Chính sách “mọi cánh cửa đều là phù hợp” đảm bảo các nhà xuất khẩu sẽ nhận được phản hồi từ cơ quan quản lý trong vòng 48 giờ đồng thời mọi rào cản phi thuế quan được phản ánh đều được ghi nhận và theo dõi.
Đi sâu vào khía cạnh pháp lý, ông Đoàn Vũ Hoài Nam, Cộng sự cấp cao, Công ty luật ASL, phân tích các rào cản phi thuế quan không chỉ là gánh nặng hành chính mà đã trở thành yếu tố chiến lược chi phối quyết định đầu tư và thiết kế chuỗi cung ứng. Sự phân mảnh trong hệ thống tiêu chuẩn kỹ thuật, yêu cầu giấy phép phức tạp trong các lĩnh vực (như logistics, giáo dục, năng lượng tái tạo và thủ tục hành chính kéo dài) là những trở ngại lớn.
“Các doanh nghiệp thường phải đối mặt với sự trì hoãn từ 15 đến 90 ngày, nhất là trong những lĩnh vực mới nổi. Những trở ngại này có thể khiến các doanh nghiệp vừa và nhỏ nản lòng,” ông Hoài Nam chia sẻ.
Tuy nhiên, ông Hoài Nam cho rằng cơ hội vẫn rộng mở trong các ngành mà New Zealand có thế mạnh (như nông sản chất lượng cao, năng lượng tái tạo, giáo dục và kinh tế số). Để tận dụng, ông Nam khuyến nghị doanh nghiệp cần xây dựng chiến lược pháp lý chủ động (lập bản đồ quy định tại từng quốc gia, điều chỉnh hợp đồng linh hoạt) và đặc biệt là bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ.
Về phía Việt Nam, ông Hoài Nam ghi nhận những cải cách trong Luật Đầu tư và Luật PPP. Nhưng, ông vẫn cho rằng cần tiếp tục hiện đại hóa quy trình cấp phép, hài hòa thực thi tiêu chuẩn, số hóa thủ tục hải quan và xây dựng cơ chế ưu tiên cho chuyên gia nước ngoài trong các lĩnh vực chiến lược.
Ngoài ra, ông Nguyễn Anh Dũng, Giám đốc quốc gia của NielsenIQ cho biết các doanh nghiệp hàng tiêu dùng nhanh khi vào ASEAN phải đối mặt với 3 nhóm thách thức chính, đó quy định nội địa đặc thù (như chứng nhận halal), rào cản logistics-phân phối và khác biệt về văn hóa, hành vi tiêu dùng.
Theo ông Dũng, doanh nghiệp không nên chỉ nhìn vào chi phí hay nhân khẩu học để lựa chọn thị trường, mà tập trung vào sức mua có định hướng. Dữ liệu của Nielseniq cho thấy 75% người tiêu dùng sẵn sàng chi nhiều hơn nếu sản phẩm giúp họ tiết kiệm chi phí về lâu dài, cho thấy sự ưu tiên ngày càng lớn cho tính hiệu quả và bền vững.
Trong bối cảnh nhiều khó khăn về thị trường, chi phí và rào cản kỹ thuật, bà Lê Hằng cho biết Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP) đã triển khai các loạt giải pháp nhằm hỗ trợ doanh nghiệp thủy sản tháo gỡ vướng mắc và thúc đẩy xuất khẩu bền vững. Cụ thể, Hiệp hội chủ động làm cầu nối giữa doanh nghiệp và cơ quan quản lý, kịp thời kiến nghị các chính sách hỗ trợ sản xuất và xuất khẩu. Nhiều đề xuất của VASEP đã được Chính phủ và các Bộ ngành ghi nhận và xử lý (như gỡ vướng về xác nhận nguyên liệu khai thác, chi phí lãi vay, quy định kích thước tối thiểu thủy sản…), đã giúp giảm thiểu ách tắc trong chuỗi cung ứng và tăng khả năng đáp ứng đơn hàng.
“Về xúc tiến thương mại, VASEP tổ chức các hội chợ chuyên ngành, nhờ đó doanh nghiệp có thêm cơ hội tiếp cận khách hàng mới, mở rộng thị phần và phát triển ổn định tại hơn 170 quốc gia. Bên cạnh đó, Hiệp hội đẩy mạnh đào tạo, tư vấn giúp doanh nghiệp nâng cao năng lực đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế, giúp doanh nghiệp bắt kịp xu hướng tiêu dùng bền vững và tiếp cận các thị trường có yêu cầu cao,” bà Hằng nói./.