Gỡ thêm nút thắt vốn cho khối doanh nghiệp tư nhân

Dư nợ khối doanh nghiệp tư nhân đã chiếm 44% tổng tín dụng ngân hàng, nhưng tỷ lệ này còn có thể cải thiện nếu những nút thắt được gỡ thêm.

Doanh nghiệp siêu nhỏ, hộ kinh doanh thường khó tiếp cận tín dụng ngân hàng, do thiếu tài sản đảm bảo

Doanh nghiệp siêu nhỏ, hộ kinh doanh thường khó tiếp cận tín dụng ngân hàng, do thiếu tài sản đảm bảo

Gỡ điểm nghẽn quan trọng của khu vực tư nhân

Thực hiện Nghị quyết số 68-NQ/TƯ ngày 4/5-2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân, nhiều chính sách hỗ trợ cụ thể cho doanh nghiệp tư nhân đã được Quốc hội thông qua. Đáng chú ý, tại Nghị quyết số 198/2025/QH15 của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển kinh tế tư nhân, doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân, hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh được Nhà nước hỗ trợ lãi suất 2%/năm khi vay vốn để thực hiện các dự án xanh, kinh tế tuần hoàn và áp dụng khung tiêu chuẩn môi trường - xã hội - quản trị (ESG).

Đây là nội dung quan trọng nhằm tháo gỡ vướng mắc lớn của doanh nghiệp khu vực kinh tế tư nhân, gồm doanh nghiệp siêu nhỏ, hộ kinh doanh và cá nhân kinh doanh - nhóm đối tượng hạn hẹp về nguồn lực tài chính và gặp khó khăn khi vay vốn, nhất là nguồn vốn đầu tư vào các lĩnh vực chi phí cao, dài hạn.

Để nâng cao khả năng tiếp cận vốn cho doanh nghiệp tư nhân, hỗ trợ khu vực kinh tế này bứt phá, Ngân hàng Nhà nước cho biết sẽ tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ chủ động, kiểm soát lạm phát, ổn định tỷ giá và ổn định mặt bằng lãi suất, góp phần tạo lập môi trường kinh doanh ổn định…

Số liệu mới nhất từ Ngân hàng Nhà nước cho thấy, hiện có khoảng 7 triệu tỷ đồng vốn cho các doanh nghiệp tư nhân vay, chiếm 44% trong tổng dư nợ tín dụng toàn nền kinh tế. Đồng thời, theo thống kê từ cơ quan này đến tháng 4/2025, lãi suất cho vay bình quân đối với các giao dịch phát sinh mới của các ngân hàng giảm 0,6%/năm so với cuối năm 2024, giảm áp lực chi phí vốn cho các doanh nghiệp tư nhân. Đối với 5 lĩnh vực ưu tiên (xuất khẩu, nông nghiệp, công nghệ cao, doanh nghiệp nhỏ và vừa, công nghiệp hỗ trợ), lãi suất cho vay ổn định ở mức 4%/năm.

Theo ông Từ Tiến Phát, Tổng giám đốc ACB, cơ chế hỗ trợ lãi suất 2%/năm cho các doanh nghiệp quy mô nhỏ, doanh nghiệp đổi mới, sáng tạo và thực hành khung ESG là rất cần thiết, song trên thực tế, việc triển khai vẫn còn nhiều rào cản, cả từ phía ngân hàng lẫn doanh nghiệp. Việt Nam đã từng có hai đợt hỗ trợ lãi suất trước đó, nhưng do thủ tục phức tạp và áp lực hậu kiểm nên nhiều ngân hàng và doanh nghiệp đều e ngại tham gia.

“Chính sách hỗ trợ lãi suất 2% là chưa đủ, mà cần thêm các giải pháp đồng bộ: cắt giảm thủ tục hành chính, số hóa quy trình cấp tín dụng và xây dựng chi tiết hơn về khung tín dụng xanh”, CEO ACB kiến nghị.

Ông Phát cũng cho rằng, các ngân hàng tư nhân hiện đã chủ động đưa ra các gói vốn ưu đãi, vốn xanh và nguồn lực trong nước dồi dào, sẵn sàng đồng hành cùng doanh nghiệp nếu cơ chế được tháo gỡ. ACB đang phục vụ hơn 1 triệu doanh nghiệp, trong đó phần lớn là doanh nghiệp vừa và nhỏ, hộ kinh doanh cá thể, những thành phần nhạy bén nhưng cũng dễ bị tổn thương trước những thay đổi về thị trường và chính sách.

“Là một ngân hàng tư nhân, chúng tôi thấu hiểu quá trình chuyển dịch của khu vực kinh tế tư nhân. Các doanh nghiệp rất sẵn sàng đầu tư, đổi mới, nhưng họ cần thấy rõ sự cụ thể, minh bạch trong chính sách”, ông Phát nói và cho biết, 4 yếu tố mà doanh nghiệp mong muốn nhất từ hệ thống ngân hàng và chính sách tài chính hiện nay là giảm chi phí tiếp cận vốn, thủ tục nhanh gọn hơn, số hóa toàn diện và hướng đến chuyển đổi xanh.

Từ góc nhìn của ông Nguyễn Đức Lệnh, Phó giám đốc Ngân hàng Nhà nước Chi nhánh khu vực 2, những giải pháp của Nghị quyết 68 của Bộ Chính trị liên quan đến nguồn lực vốn, tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng là những giải pháp rất cụ thể và toàn diện. Ở góc độ hoạt động ngân hàng và tiếp cận theo nhóm giải pháp về nguồn lực vốn, Nghị quyết 68 tạo ra những động lực phát triển đa dạng các phương thức cho vay, cũng như các yếu tố nền tảng, tạo thuận lợi cho hoạt động tín dụng.

Nhà nước phải là “bà đỡ”

TS. Đỗ Thiên Anh Tuấn, Trường Chính sách công và quản lý Fulbright cho rằng, khi doanh nghiệp được tạo điều kiện thuận lợi trong đầu tư, kinh doanh, phát triển kinh tế, họ sẽ có điều kiện để trả nợ cho ngân hàng.

“Nền kinh tế càng vươn ra hội nhập, càng phát triển thì Nhà nước phải là “bà đỡ” cho kinh tế tư nhân, cho doanh nghiệp. Có những rủi ro đến từ thị trường, Nhà nước phải tối thiểu hóa rủi ro đó cho doanh nghiệp. Từ đó, khả năng phá sản, thất bại để ngân hàng cưỡng chế, thu hồi nợ cũng thấp đi”, TS. Đỗ Thiên Anh Tuấn nêu quan điểm.

Còn theo PGS.TS. Nghiêm Thị Thà, Tổng thư ký Hiệp hội Tư vấn Tài chính Việt Nam (VFCA), kinh tế tư nhân đang ngày càng khẳng định vai trò chủ lực trong nền kinh tế Việt Nam. Trong bối cảnh kinh tế thế giới và trong nước đang phục hồi mạnh mẽ, phát triển kinh tế tư nhân trở thành yêu cầu cấp thiết nhằm tạo động lực tăng trưởng mới. Tuy nhiên, để khu vực này phát triển bền vững, vấn đề then chốt hiện nay là phải khơi thông các dòng vốn (cả ngắn hạn và dài hạn) một cách thực chất và hiệu quả.

Về nguồn vốn ngắn hạn, khu vực kinh tế tư nhân đang chiếm khoảng 50% tổng dư nợ toàn hệ thống ngân hàng, tương đương gần 7 triệu tỷ đồng. Tuy nhiên, doanh nghiệp nhỏ và vừa vẫn phải chịu mức lãi suất vay thương mại dao động 9 - 11%/năm, cao hơn mặt bằng chung trong khu vực ASEAN (6 - 7%/năm). Đồng thời, khó khăn lớn nằm ở khả năng tiếp cận tín dụng, đặc biệt đối với các hộ kinh doanh cá thể.

Chuyên gia tài chính - kinh tế, TS. Nguyễn Xuân Thành cũng đưa ra nhận định, Việt Nam đang đứng trước yêu cầu cấp thiết phải tái thúc đẩy tăng trưởng; trong đó, việc phát triển khu vực tư nhân không thể chỉ dừng lại ở thông điệp chính trị, mà cần các đột phá thể chế cụ thể. Các chính sách mới trong Nghị quyết 68, Nghị quyết 139 và các hành động của Chính phủ đã đề ra nhiều hướng tiếp cận nguồn lực.

Cụ thể, về tiếp cận đất đai, tái khai thác quỹ đất công chưa sử dụng; hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ, công nghệ cao, khởi nghiệp sáng tạo thuê đất khu công nghiệp với diện tích tối thiểu. Tuy nhiên, đối với vấn đề tiếp cận vốn, theo TS. Nguyễn Xuân Thành, cần đa dạng hóa kênh tín dụng, tạo điều kiện cho khối kinh tế tư nhân tiếp cận được nguồn vốn, khơi thông thị trường trái phiếu doanh nghiệp, sửa luật để mở rộng đối tượng được hỗ trợ và đơn giản hóa thủ tục vay vốn. Có như vậy, khối doanh nghiệp tư nhân mới có cơ hội để tiếp cận nguồn vốn.

“Chính sách không thể chỉ là khẩu hiệu, hỗ trợ phải đến từ nguồn lực thực, tránh lặp lại cơ chế xin - cho và tuyệt đối không nên tạo thêm bộ máy giám sát rườm rà”, TS. Thành nói và chỉ ra “điểm nghẽn” hiện nay nằm ở khâu thực thi.

Vân Linh

Nguồn ĐTCK: https://tinnhanhchungkhoan.vn/go-them-nut-that-von-cho-khoi-doanh-nghiep-tu-nhan-post370865.html