Góp ý vào Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng:Mô hình tăng trưởng mới - Bước chuyển của tư duy phát triển
Gần bốn thập niên Đổi mới đã đưa đất nước ta từ một nền kinh tế khép kín, kém phát triển trở thành một nền kinh tế thị trường năng động, có thu nhập trung bình và hội nhập sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu.
Tuy nhiên, động cơ của mô hình tăng trưởng cũ - dựa chủ yếu vào vốn, lao động và tài nguyên đang dần cạn kiệt, tài nguyên hữu hạn, năng suất lao động tăng chậm, trong khi áp lực môi trường, năng lượng và già hóa dân số ngày càng lớn.
Trong bối cảnh đó, Dự thảo Báo cáo chính trị Đại hội XIV của Đảng đã đưa ra định hướng chiến lược: “Xác lập mô hình tăng trưởng mới với mục tiêu là nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, giá trị gia tăng và sức cạnh tranh của nền kinh tế; lấy khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số làm động lực chính; tạo ra sức sản xuất và phương thức sản xuất mới chất lượng cao, trọng tâm là kinh tế dữ liệu, kinh tế số; đẩy mạnh chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, chuyển đổi năng lượng, chuyển đổi cơ cấu và chất lượng nguồn nhân lực”.
Đây không chỉ là một nội dung kỹ thuật, mà là bước ngoặt trong tư duy phát triển - chuyển từ tăng trưởng theo chiều rộng sang chiều sâu, từ mở rộng đầu vào sang nâng cao giá trị đầu ra, từ “làm nhiều hơn” sang “làm thông minh hơn”.
Vấn đề đặt ra là, để trở thành chỉ đạo có sức gợi mở và khả thi, mô hình này cần được làm rõ nội hàm và cấu trúc vận hành, thay vì chỉ liệt kê các yếu tố như khoa học, công nghệ, chuyển đổi số hay chuyển đổi xanh.
Mô hình tăng trưởng cũ: Mở rộng đầu vào, tiêu hao nguồn lực
Trong suốt gần bốn thập niên qua, tăng trưởng của Việt Nam chủ yếu dựa vào đầu tư công, lao động giá rẻ, khai thác tài nguyên và mở rộng thị trường xuất khẩu. Mô hình này đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử: Giúp đất nước thoát nghèo, hình thành nền công nghiệp cơ bản, ổn định kinh tế vĩ mô và hội nhập quốc tế sâu rộng.

Xác lập mô hình tăng trưởng mới với mục tiêu là nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả là một trong những định hướng chiến lược tại Dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội XIV của Đảng. Ảnh: Quang Thái
Tuy nhiên, khi nền kinh tế đã phát triển đến một ngưỡng nhất định, mô hình cũ bắt đầu bộc lộ giới hạn. Năng suất lao động tăng chậm, trung bình dưới 5%/năm, thấp hơn đáng kể so với các nền kinh tế Đông Á trong giai đoạn cất cánh. Năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) - chỉ số phản ánh hiệu quả của tri thức và công nghệ - mới đóng góp khoảng 35-40% vào tăng trưởng, trong khi ở Hàn Quốc hay Singapore, con số này đạt 60-70%.
Tăng trưởng dựa vào mở rộng đầu vào cũng kéo theo hệ quả tiêu hao tài nguyên, ô nhiễm môi trường và gia tăng bất bình đẳng. Nói cách khác, chúng ta đã đi xa nhờ cơ bắp, nhưng muốn tiến xa hơn, Việt Nam phải bước sang kỷ nguyên của trí tuệ.
Mô hình tăng trưởng mới: Dựa trên tri thức, công nghệ và sáng tạo
Bản chất của mô hình tăng trưởng mới là chuyển dịch nền tảng tạo ra giá trị - từ lao động cơ học sang lao động tri thức, từ đầu tư vật chất sang đầu tư vào con người, công nghệ và thể chế. Có thể khái quát rằng:
Mô hình tăng trưởng mới là mô hình phát triển dựa trên tri thức, công nghệ, đổi mới sáng tạo và nhân lực chất lượng cao, trong đó năng suất tổng hợp (TFP) và giá trị gia tăng được tạo ra chủ yếu nhờ tiến bộ khoa học, dữ liệu, thể chế hiện đại và năng lực sáng tạo của con người.
Nếu mô hình cũ lấy “vốn, lao động, tài nguyên, thị trường” làm động lực, thì mô hình mới lấy “tri thức, công nghệ, thể chế, con người” làm trung tâm. Cấu trúc của mô hình này có thể gồm năm trụ cột cơ bản:
1. Động lực mới - khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh và kinh tế tri thức.
2. Thể chế hiện đại - khuyến khích cạnh tranh, bảo vệ tài sản trí tuệ, mở không gian cho sáng tạo và khởi nghiệp.
3. Nguồn lực con người - phát triển nhân tài, kỹ năng số và văn hóa học suốt đời, coi con người là trung tâm của phát triển.
4. Hạ tầng và dữ liệu - hạ tầng số, năng lượng sạch và hệ sinh thái đổi mới sáng tạo quốc gia.
5. Không gian phát triển - các cực tăng trưởng, vùng kinh tế động lực và đặc khu thế hệ mới ngang tầm khu vực và toàn cầu.
Như vậy, thay vì tăng trưởng bằng “số lượng”, mô hình mới hướng tới tăng trưởng bằng chất lượng và năng suất, nơi thể chế, công nghệ và con người kết hợp để tạo nên sức cạnh tranh mới của quốc gia.
Vì sao mô hình mới là tất yếu?
Thứ nhất, mô hình cũ đã hết dư địa. Nguồn lao động giá rẻ không còn, chi phí vốn cao, tài nguyên suy giảm, trong khi nhu cầu đổi mới công nghệ trở nên cấp bách.

Nhu cầu đổi mới công nghệ trở nên cấp bách với nền kinh tế Việt Nam. Ảnh: Quang Thái
Thứ hai, bối cảnh toàn cầu đang thay đổi sâu sắc. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn và kinh tế số đang tái cấu trúc chuỗi giá trị toàn cầu. Ai nắm công nghệ và dữ liệu, người đó nắm lợi thế phát triển. Nếu không chuyển đổi, Việt Nam sẽ bị đẩy xuống những công đoạn có giá trị thấp nhất.
Thứ ba, cam kết phát triển bền vững và trung hòa carbon đến năm 2050 đòi hỏi mô hình tăng trưởng phải “xanh hơn, sạch hơn và thông minh hơn”. Không thể đạt Net-zero bằng công nghệ cũ và mô hình cũ.
Thứ tư, tư duy phát triển của Đảng đã thay đổi. Từ Đại hội XIII đến nay, Đảng đã khẳng định bốn đột phá chiến lược: Thể chế, con người, khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo. Điều đó tạo nền tảng chính trị, tư tưởng vững chắc cho việc xác lập một mô hình tăng trưởng mới, hiện đại và bền vững hơn.
Vì sao mô hình mới là khả thi?
Việt Nam có đủ điều kiện để bước vào mô hình tăng trưởng mới. Đội ngũ nhân lực trẻ, năng động và thông minh giúp đất nước có lợi thế hấp thụ công nghệ nhanh. Hệ sinh thái đổi mới sáng tạo đã hình thành với hơn 3.800 startup, hàng trăm quỹ đầu tư mạo hiểm và nhiều trung tâm R&D của các tập đoàn toàn cầu. Hạ tầng số và dữ liệu quốc gia đang được xây dựng đồng bộ; Chính phủ số, kinh tế số và xã hội số đang dần trở thành hiện thực.
Cùng với đó, cải cách thể chế đang được đẩy mạnh: giảm thủ tục, số hóa quy trình, xây dựng Chính phủ kiến tạo, chuyển trọng tâm từ “quản lý” sang “phục vụ và tạo thuận lợi”. Nếu các nỗ lực này tiếp tục được kiên định, mô hình tăng trưởng mới không chỉ khả thi, mà còn có thể trở thành lợi thế cạnh tranh của Việt Nam trong khu vực.
Kiến nghị biên tập lại tiểu mục trong Dự thảo Báo cáo chính trị
Để phản ánh đúng tinh thần đổi mới tư duy, tiểu mục về “mô hình tăng trưởng mới” nên được biên tập lại theo hướng rõ ràng về khái niệm, mạch lạc về cấu trúc, và hàm chứa tính chỉ đạo thực tiễn. Xin được đề xuất phương án mới như sau:
“Xác lập mô hình tăng trưởng mới dựa trên tri thức, công nghệ và đổi mới sáng tạo; lấy nâng cao năng suất tổng hợp, chất lượng và giá trị gia tăng làm mục tiêu trung tâm.
Động lực chủ yếu là khoa học - công nghệ, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh và kinh tế tri thức. Phương thức phát triển là hiện đại hóa, số hóa và xanh hóa các ngành, phát triển kinh tế dữ liệu, kinh tế tuần hoàn, đồng thời nâng cao chất lượng nguồn nhân lực”.
Cách thể hiện như vậy sẽ giúp văn kiện vừa cô đọng, vừa sáng rõ về tư duy, thể hiện được sự chuyển đổi căn bản của mô hình phát triển.
Bước tiến của tư duy phát triển
Nếu Đổi mới năm 1986 là cuộc cách mạng giải phóng sức sản xuất, thì việc xác lập mô hình tăng trưởng mới hôm nay chính là cuộc cách mạng giải phóng sức sáng tạo. Từ nền kinh tế làm thuê, Việt Nam có thể trở thành nền kinh tế sáng tạo và dữ liệu, nơi giá trị được sinh ra từ tri thức, công nghệ và thể chế hiện đại.
Đây không chỉ là một yêu cầu kinh tế, mà là một bước tiến lớn trong tư duy phát triển của Đảng. Một đất nước không thể bước vào kỷ nguyên hùng cường bằng công thức cũ. Chỉ khi tri thức, sáng tạo và công nghệ trở thành nguồn lực chủ đạo, Việt Nam mới thật sự bước vào thời kỳ tăng trưởng thông minh, bền vững và tự cường.











