Hà Nội thiếu nước sạch, vì đâu?
Đến hẹn lại lên, cảnh người dân Thủ đô mất nước, thiếu nước tiếp tục tái diễn. Người dân Thủ đô còn vậy thì quyền được dùng nước sạch - nước máy của toàn bộ người dân Việt Nam vẫn còn là chuyện xa vời. Ngay tại Hà Nội, chuyện mất nước, thiếu nước liên tục lặp lại bởi những yếu kém và chậm trễ trong phát triển thị trường cung cấp dịch vụ nước sạch là câu chuyện đã được mổ xẻ, cảnh báo nhưng từ Chính phủ đến địa phương vẫn không có động thái thực chất nào để xử lý.
Những vấn đề kể trên nằm ở lý do gốc rễ: nguồn lực đầu tư từ ngân sách nhà nước cho cung ứng dịch vụ nước sạch đang thiếu hụt; trong khi đó, dù là một thị trường tiềm năng, sự tham gia của nhà đầu tư tư nhân vẫn hạn chế do các khuôn khổ pháp lý lẫn thực thi pháp luật cho thị trường này còn quá sơ khai.
Lấy ví dụ tại thị trường Hà Nội - hiện có 6 doanh nghiệp sản xuất, cung cấp nguồn nước sạch chính gồm: Công ty TNHH MTV Nước sạch Hà Nội, Công ty CP Đầu tư Nước sạch sông Đà, Công ty TNHH MTV Nước sạch Hà Đông, Công ty CP Cấp nước Sơn Tây, Nhà máy Nước mặt sông Đuống, Nhà máy nước Hà Nam. Công suất cấp nước là không đủ cầu cho toàn bộ dân số. Tại khâu phân phối, giai đoạn này được thực hiện chủ yếu bởi một số công ty như Công ty TNHH MTV nước sạch Hà Nội, Công ty CP nước sạch số 2 Hà Nội, Công ty CP sản xuất và kinh doanh nước sạch số 3 Hà Nội, Công ty CP Viwaco, Công ty TNHH MTV Nước sạch Hà Đông.
Cấu trúc thị trường như vậy là thiếu rành mạch - không phân rõ được phân khúc nào dành cho doanh nghiệp tư nhân; phân khúc nào thuộc về Nhà nước; khung giá lẫn khối lượng mua đều không rõ ràng và không thực hiện theo đúng cam kết hợp đồng. Một loạt hạn chế kể trên khiến thị trường chưa đủ độ minh bạch cần thiết và doanh nghiệp không được đảm bảo đầy đủ quyền lợi khi tham gia thị trường. Nhìn vào thị trường tại Hà Nội, mảng kinh doanh này hiện mới chỉ tập trung vào một số tập đoàn có tiềm lực tài chính lớn như Gelex Energy, Aqua One hay REE Corp. Nhưng, các doanh nghiệp dù có "máu mặt" đều gặp khó khăn. Cụ thể, cả hai phương diện, tỷ lệ mua nước theo thực tế của Hà Nội với doanh nghiệp lẫn mức giá thực tế so với cam kết đều thấp hơn khi ký hợp đồng với chính quyền địa phương. Họ cũng đối mặt với rủi ro pháp lý khi cần xây dựng đường ống phân phối nước ra địa bàn mới, nơi không có sẵn đường ống. Điều này dẫn đến nghịch lý là công suất sản xuất của doanh nghiệp, đơn cử như Nhà máy nước Sông Đuống thì dư thừa, nhưng người dân ngoại thành Hà Nội lại không có nước sạch.
Tình trạng rối rắm và thiếu hiệu quả ở Hà Nội cho phép đặt ra những câu hỏi lớn cho thiết kế thị trường nước sạch tương lai khi vận hành thị trường và thu hút đầu tư tư nhân. Câu hỏi quan trọng là hai loại chủ thể này có vai trò, trách nhiệm như thế nào trong hoạt động cung ứng dịch vụ nước sạch - một loại dịch vụ công thiết yếu?
Hiện nay, Nhà nước cho phép và khuyến khích khu vực tư nhân tham gia đầu tư sản xuất và phân phối nước sạch. Theo Nghị định số 117/2007/NĐ-CP, cơ quan nhà nước có thẩm quyền lựa chọn đơn vị cấp nước theo hình thức chỉ định hoặc đấu thầu; UBND ký thỏa thuận cung cấp nước sạch với đơn vị cấp nước thực hiện dịch vụ cấp nước trên địa bàn. Đến năm 2020, Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư được Quốc hội thông qua, quy định cung cấp nước sạch là một lĩnh vực đầu tư theo phương thức đối tác công - tư (Điều 6).
Tuy nhiên, trên thực tế, sự tham gia của khu vực tư nhân, nhà đầu tư nước ngoài tham gia cung cấp dịch vụ nước sạch vẫn còn hạn chế. Bên cạnh đó, việc tư nhân tham gia vào cung cấp nước sạch ở khu vực chưa có hệ thống đường ống mà chủ yếu là khu vực nông thôn đã dẫn đến tình trạng gây bức xúc cho người dân là muốn dùng nước sạch phải đóng tiền xây dựng đường ống cho đơn vị cấp nước. Vậy vai trò của Nhà nước, tư nhân trong cung cấp dịch vụ cấp nước ở đây như thế nào? Người dân khi tham gia đóng góp vào xây dựng đường ống sẽ có thêm những quyền lợi gì trong khi nhà nước phải bảo đảm quyền tiếp cận nước sạch? Cơ chế đầu tư theo phương thức công - tư trong cung cấp dịch vụ nước sạch phải được triển khai như thế nào để đạt được mục tiêu nước sạch cho toàn dân?
Không dễ để trả lời một loạt câu hỏi trên đây về tổ chức thị trường nước sạch như thế nào cho hiệu quả. Nhưng nếu không thể trả lời được những câu hỏi đó - nghĩa là quyền tiếp cận nước sạch của người dân, đặc biệt là người dân nông thôn sẽ tiếp tục không được đáp ứng. Vấn đề trước mắt lúc này cần làm là đánh giá lại toàn diện lại trị thường và bắt tay ngay trong việc xây dựng lại chính sách và quy định pháp lý. Thị trường nước sạch đã bị "bỏ bê" quá nhiều năm và con đường dài, đầy thách thức vẫn còn ở phía trước.