Hào khí Hoa Lư: Hướng đến Đô thị di sản thiên niên kỷ, thành phố sáng tạo

Có thể khẳng định, Di sản Hoa Lư đã để lại cho chúng ta tiềm năng lớn của một di sản mang tầm cỡ di sản thế giới với nhiều giá trị vô giá để nói về Hào khí Hoa Lư. Chỉ mới nghiên cứu bước đầu, Di sản Hoa Lư đã hé lộ những giá trị văn hóa vô cùng quý báu.

Theo Đại Việt sử ký toàn thư (chính sử Việt Nam thế kỷ XV), năm 968, một sự kiện trọng đại đã diễn ra tại vùng đất Hoa Lư (Ninh Bình) khi chép rằng: “Vua (Đức Vua Đinh Tiên HoàngTTT) lên ngôi, đặt quốc hiệu Đại Cồ Việt, dời kinh ấp về động Hoa Lư, bắt đầu xây dựng kinh đô mới, đắp thành đào hào, xây cung điện, đặt triều nghi. Bầy tôi dâng hiệu là Đại Thắng Minh Hoàng Đế” (Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb Khoa học xã hội 1988:tr.211).

Nhưng, kể từ lúc Đức Hoàng đế Lý Thái Tổ dời Hoa Lư ra Thăng Long năm 1010, Kinh đô Hoa Lư đã dần dần bị thời gian cùng các biến thiên của thiên nhiên, xã hội hủy hoại và cuối cùng ngày càng bị vùi sâu dưới lòng đất.

 Sơ đồ các đoạn tường thành Hoa Lư thời Đinh-Tiền Lê.

Sơ đồ các đoạn tường thành Hoa Lư thời Đinh-Tiền Lê.

Mấy chục năm qua, mặc dù hoạt động khảo cổ học được triển khai chưa nhiều nhưng cũng đã bắt đầu cho phép nhận ra tại đây còn lưu giữ rất nhiều di tích đang ẩn tàng trong những lớp văn hóa thế kỷ X.

Trước hết là một tòa thành đồ sộ, độc đáo vào bậc nhất của Việt Nam và thế giới được người Đại Việt-Đại Cồ Việt xây dựng trong thời Đinh-Tiền Lê. Những cuộc điều tra khảo cổ học đã phát lộ dần dấu tích thành Hoa Lư có quy mô to lớn, được xây dựng bằng cách nối liền nhiều quả núi thiên nhiên lại với nhau bằng các đoạn tường thành. Có tất cả 11 đoạn tường thành nối liền khoảng hơn chục quả núi đá, tạo thành một khu vực rộng khoảng 300 ha.

Việc khai quật các đoạn thành Đông và Đông Bắc cho thấy tường thành được xây dựng rất công phu và kiên cố, móng tường dùng gỗ, cành cây và đất sét để chống lún, mặt trong xây bằng gạch, mặt ngoài đắp bằng đất, có chỗ còn cao 1,75m, chân tường thành rộng 15m-20m, mặt tường rộng 8m-10m.

Việc lợi dụng các quả núi thiên nhiên kết hợp với các đoạn tường thành đắp nhân tạo đã tạo ra một vòng thành hết sức độc đáo, đồ sộ và vững chắc. Một số đoạn tường gạch khác (như tường Ngòi Chẹm) được phát hiện bên trong tòa thành đất cho thấy trong tòa thành đồ sộ kia còn có các lớp thành khác ở bên trong để bao bọc các tòa cung điện quan trọng.

Gạch hình chữ nhật in chữ Hán “Đại Việt quốc quân thành chuyên” thời Đinh-Tiền Lê.

Gạch hình chữ nhật in chữ Hán “Đại Việt quốc quân thành chuyên” thời Đinh-Tiền Lê.

Việc đắp thành gồm nhiều vòng thành nương theo địa thế tự nhiên ở Hoa Lư đã mang truyền thống đắp thành của người Việt từ thời An Dương Vương xây thành Cổ Loa (thế kỷ III-thế kỷ II TCN). Truyền thống này cũng được thấy ở vòng Đại La thành của Kinh đô Thăng Long thời Lý, Trần, Lê sơ, Mạc, Lê Trung hưng (thế kỷ XI-XVIII).

Sự kiện đắp thành Hoa Lư của vương triều Đinh năm 968 một cách kiên cố, hùng vĩ như vậy trong điều kiện đất nước vừa thoát khỏi thời kỳ đêm trường nghìn năm Bắc thuộc và cục diện 12 sứ quân đã thể hiện rõ tinh thần tự chủ, tự cường mạnh mẽ ở mức độ rất cao trong công cuộc xây dựng và bảo vệ nền độc lập non trẻ của vương triều Đinh và Nhân dân Đại Cồ Việt thời Đinh.

Dưới lòng đất của tòa thành, tại các khu vực Đền Vua Đinh, Đền Vua Lê, tường thành Đông Bắc, Bãi Hội, cánh đồng Nội Trong… còn tìm thấy hàng chục vị trí có vết tích kiến trúc thời Đinh-Lê. Các nền kiến trúc cũng được bố trí ở các độ cao thấp khác nhau: có nền chỉ cách mặt đất hiện nay 45cm, có nền ở độ sâu 1 mét, có nền ở độ sâu 2 mét. Có một số nền gạch được bố trí rãnh thoát nước. Điều đó chứng tỏ Kinh đô Hoa Lư có rất nhiều kiến trúc khác nhau, được bố trí tòa ngang dãy dọc với mật độ khá cao ở khu vực trung tâm. Đó là dấu tích các cung điện thời Đinh-Lê.

Sử cũ từng ghi các cung điện ở Hoa Lư xưa thật tráng lệ: “Giáp Thân, năm thứ 5 (984-TTT)… làm nhiều cung điện nhà cửa: dựng điện Bách Bảo Thiên Tuế ở núi Đại Vân, cột điện dát vàng bạc, làm nơi coi chầu, phía Đông làm điện Phong Lưu, phía Tây làm điện Tử Hoa, bên tả làm điện Bồng Lai, bên hữu làm điện Cực Lạc. Tiếp đó lầu Đại Vân, dựng tiếp điện Trường Xuân làm nơi vua nghỉ. Bên cạnh điện Trường Xuân lại dựng điện Long Lộc, mái lợp ngói bạc” (Đại Việt sử ký toàn thư tập I, đd: 223).

Vang vọng Cố đô.

Vang vọng Cố đô.

Như vậy, việc khai quật phát hiện nhiều nền móng kiến trúc đã minh chứng xác thực các ghi chép của sử cũ. Các cứ liệu khảo cổ học còn cho thấy các kiến trúc đó được xây dựng rất đẹp, công phu. Gạch, ngói đều được chạm khắc trang trí rồng, phượng, uyên ương, đầu thú, hoa sen, hoa cúc... Hoa sen có mặt ở nhiều nơi chứng tỏ thời Đinh-Lê thấm đẫm ảnh hưởng nghệ thuật Phật giáo. Hình ảnh chim phượng múa là biểu trưng cho đất nước thống nhất, thái bình và thịnh vượng.

Các cuộc khai quật còn phát lộ hàng nghìn di vật gốm sành sứ Việt Nam, minh chứng quá trình phát triển truyền thống sản xuất gốm Việt Nam trong thời đại Đinh-Lê. Tất cả cho thấy, sau đêm trường nghìn năm Bắc thuộc, Đại Cồ Việt-Đại Việt thời ĐinhLê đã thực sự ổn định và phát triển với những phẩm chất tuyệt vời của con người Hoa Lư, tiếp nối không đứt đoạn của truyền thống hàng nghìn năm văn hiến Việt Nam, tạo tiền đề cho văn hóa Việt Nam phát triển đến mạnh mẽ, giàu tính sáng tạo, mang đậm bản sắc văn hóa Việt Nam, trong sự tiếp biến không ngừng và giao thoa rộng mở với các nền văn hóa trong khu vực châu Á và Đông Nam Á.

Lễ Rước nước trên sông Hoàng Long.

Lễ Rước nước trên sông Hoàng Long.

Trong bối cảnh thế kỷ X, thời kỳ vẫn còn đang có nội loạn và ngoại xâm lăm le, Di sản Hoa Lư đã thể hiện tinh thần quật khởi của người Đại Việt-Đại Cồ Việt thời Đinh trong sự nghiệp khẳng định và kiên quyết bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc.

Lần đầu tiên xưng Đế sau thời Lý Nam Đế, lần đầu tiên xây dựng Kinh đô to lớn sau Kinh đô Cổ Loa, phát triển kiến trúc cung điện, đặt nền móng cho sự phát triển của toàn bộ nền nghệ thuật dân tộc với ý nghĩa mở đầu và tạo tiền đề, phục hưng mạnh mẽ nền văn hóa Đông Sơn, duy nhất ghi tên quốc hiệu Đại Việt lên gạch, sáng tạo tên nước Đại Cồ Việt được ghi chép trong chính sử… Đó là các giá trị vô tiền khoáng hậu xuyên thế kỷ mà nay ta chỉ thấy được ở Di sản Kinh đô Hoa Lư thời Đinh-Lê.

Quang cảnh Lễ hội Hoa Lư.

Quang cảnh Lễ hội Hoa Lư.

Có thể nói, nền văn hóa Đại Cồ Việt Đại Việt với Di sản Hoa Lư đã tạo tiền đề và mở đường cho sự phát triển đến đỉnh cao của văn hóa, văn minh Việt Nam trong các thời kỳ tiếp theo. Đó là Hào khí Hoa Lư, đặc sản văn hóa Việt Nam thế kỷ X. Thật là hiếm quý với một vùng đất thiêng, với tất cả nhiệt huyết cháy bỏng của người dân Ninh Bình hôm nay đã và đang thể hiện ý chí quyết tâm mang Hào khí Hoa Lư hướng tới một Đô thị di sản thiên niên kỷ, thành phố sáng tạo. Đó là một ý chí sáng tạo, kết hợp nhuần nhuyễn giữa truyền thống và hiện đại, giữa khát vọng và niềm tin, thể hiện quyết tâm vươn lên mạnh mẽ, tràn đầy trí tuệ của Ninh Bình xưa và nay, để vững bước tiến lên một cách toàn diện, phồn vinh.

Nguồn Ninh Bình: https://baoninhbinh.org.vn/hao-khi-hoa-lu-huong-den-do-thi-di-san-thien-nien-ky-thanh-265422.htm