Hát Páo dung của người Dao ở Hà Giang là Di sản Văn hóa Phi vật thể Quốc gia
Hát Páo dung không có nhạc cụ đệm, được thể hiện ngẫu hứng, tự nhiên bằng chính cảm xúc cá nhân của người hát, chính vì vậy, các làn điệu Páo dung giàu nhạc điệu và thấm đậm chất trữ tình.
Hát Páo dung của dân tộc Dao là loại hình hát xướng mang tính nghệ thuật, là hình thức văn nghệ dân gian mang giá trị cao đẹp của con người với ca từ mượt mà mà, sâu lắng.
Hát Páo dung bao hàm nội dung ca ngợi cuộc sống tươi đẹp, quê hương đất nước, tình yêu đôi lứa, là lời răn nhẹ nhàng mà sâu sắc.
Tại Quyết định số 387-QĐ/BVHTTDL ngày 21/2/2024, Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã quyết định đưa Nghệ thuật trình diễn dân gian Hát Páo dung của người Dao tỉnh Hà Giang vào Danh mục Di sản Văn hóa Phi vật thể Quốc gia.
Hát Páo dung không có nhạc cụ đệm, được thể hiện ngẫu hứng, tự nhiên bằng chính cảm xúc cá nhân của người hát, chính vì vậy, các làn điệu Páo dung giàu nhạc điệu và thấm đậm chất trữ tình.
Hát Páo dung có hai loại: Páo dung cổ và Páo dung mới. Hát Páo dung cổ thường được sử dụng trong các nghi lễ cúng như: Lễ cấp sắc, đám ma, cúng Bàn Vương, cúng trẻ ốm, lễ lúa mới. Páo dung mới được các nghệ nhân hát trong các buổi lễ liên hoan văn nghệ, giao lưu văn hóa hoặc trong các dịp lễ hội.
Nội dung các bài Páo dung được phân ra làm 3 nhóm: Páo dung sinh hoạt; Páo dung lễ nghi tín ngưỡng-phong tục và Páo dung lao động.
Páo dung sinh hoạt là loại hình ca hát chiếm vai trò chủ đạo trong kho tàng dân ca Dao. Páo dung sinh hoạt gồm nhiều loại: hát giao duyên, hát ru, hát đồng dao, hát than...
Hát giao duyên là để trai gái chưa vợ, chưa chồng làm quen và tìm hiểu nhau. Tiếng hát giao duyên gần như là phương tiện chủ yếu để các chàng trai, cô gái người Dao giãi bày tình cảm, trò chuyện, tìm hiểu, trao đổi tình yêu đôi lứa.
Hình thức hát giao duyên bao giờ cũng có hai nhóm hát (một nhóm nam và một nhóm nữ), mỗi nhóm có ít nhất từ 1 người trở lên. Hát giao duyên không chỉ là phương tiện thể hiện tài năng của các đôi nam nữ mà còn là nơi gửi gắm và thể hiện ước mơ, quan niệm về người bạn tình cũng như tình cảm của những người đang tìm hiểu nhau.
Hát ru là những lời ca mượt mà, êm ái nhằm đưa trẻ vào giấc ngủ ngon. Ở ngành Dao nào, hát ru cũng là cách hát dễ nhất, thấm đậm hồn quê, tình người sâu lắng. Đặc điểm của hát ru là bài hát không dài, từ ngữ dễ hiểu, dễ nhớ và thường dùng thể thơ tự do, thơ 7 chữ, hoặc các bài ca dao có sẵn trong dân gian, vì thế lời hát ru mang đậm nghệ thuật dân ca.
Hát đồng dao là hình thức hát vui chơi trẻ em. Đặc điểm chung của các bài đồng dao là ngôn từ dễ hiểu, dễ thuộc, lời lẽ ngắn gọn, có vần, có điệu, có tính chất vui tươi, dí dỏm phù hợp tâm sinh lí trẻ nhỏ. Môi trường phát triển của đồng dao luôn gắn với các hoạt động chơi đùa của con trẻ và sinh hoạt sản xuất của nhà nông.
Hát than là những bài ca than thân kể khổ về số phận của một số người sống cơ cực, bần hàn, cô đơn. Hát than còn là tiếng ca ai oán của những người mồ côi, không cha, không mẹ hoặc những người có tâm trạng buồn chán. Hình thức hát than chủ yếu hát tự phát, đơn lẻ mang tính cá nhân tự cất lên tiếng hát và tự mình suy ngẫm. Vì vậy, lời hát hát than luôn buồn, lắng đọng, giai điệu nhẹ nhàng, da diết.
Hát răn dạy là những bài hát khuyên dạy con người sống hướng thiện, không làm việc xấu, chăm chỉ lao động, học hành... Ngôn ngữ trong các bài hát răn dạy sâu sắc nhưng chân thành, dễ hiểu.
Trong khi đó, Páo dung lễ nghi tín ngưỡng-phong tục gồm những bài hát được sử dụng trong các nghi lễ tín ngưỡng của người Dao, như: hát trong lễ cưới, lễ cấp sắc, đám chay, cúng Bàn Vương, cúng đầy tháng, cúng người chết, cúng lên nương, cúng tra hạt… Các bài hát lễ nghi tín ngưỡng-phong tục được ghi chép thành sách và thường được các thầy cúng Dao lưu giữ trong quá trình hành nghề.
Páo dung lao động gồm những bài hát ca ngợi lao động sản xuất, phản ánh đời sống du canh du cư của đồng bào trước đây, canh tác nương rẫy hay những kinh nghiệm về thời tiết, mùa vụ được các thế hệ người Dao tích lũy và truyền lại cho thế hệ sau. Môi trường diễn xướng của bài ca lao động chủ yếu được thể hiện trong quá trình lao động trên nương, trên rẫy nhằm làm vơi đi những vất vả, bộn bề của cuộc sống. Hình thức diễn xướng chủ yếu là hát đơn, hát đối đáp trong lúc nghỉ ngơi, trao đổi kinh nghiệm sản xuất.
Theo Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Hà Giang, tính đến nay, tỉnh có 32 Di sản Văn hóa Phi vật thể được ghi vào Danh mục Di sản Văn hóa Phi vật thể cấp Quốc gia, trong đó có 8 di sản của dân tộc Bố Y, Lô Lô và Pu Péo, Cờ Lao có số dân dưới 10.000 người./.