Hiến kế cho mô hình Trung tâm tài chính quốc tế tại Việt Nam - Kỳ 1: Cần tận dụng ưu thế thị trường nội địa 100 triệu dân
Ngày 27/6/2025, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết số 222/2025/QH15 về Trung tâm tài chính quốc tế (TTTCQT) tại Việt Nam. Phóng viên Báo Pháp luật Việt Nam ghi nhận ý kiến của các chuyên gia góp ý các giải pháp hoàn thiện khung pháp lý, cơ chế hoạt động… nhằm thu hút nhà đầu tư, bảo vệ quyền lợi khách hàng, giải quyết tranh chấp giúp cho TTTCQT tại Việt Nam hoạt động hiệu quả.
Nghị quyết 222 đã có nhiều chính sách ưu đãi hơn so với quy định pháp luật hiện hành để áp dụng trong TTTCQT về các lĩnh vực như đầu tư, ngoại hối, thuế… Tuy nhiên, theo các chuyên gia, cần gia tăng các chính sách này để thu hút đầu tư nước ngoài vào TTTCQT.
Mối quan tâm hoạt động đầu tư từ TTTCQT ra lãnh thổ Việt Nam
Luật sư (LS) Trần Anh Đức (thành viên Cty Luật Allen Overy Shearman Sterling (Việt Nam), thành viên Ban Thường vụ Liên đoàn LS Việt Nam nhiệm kỳ III) đánh giá, Nghị quyết 222 đã có nhiều ưu đãi với hoạt động đầu tư từ nước ngoài vào TTTCQT.
Một số chính sách nổi bật là nhà đầu tư (NĐT) nước ngoài được phép thành lập tổ chức kinh tế trong TTTCQT mà không cần phải có dự án đầu tư và không phải thực hiện thủ tục cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư (GCNĐKĐT) hoặc chấp thuận chủ trương đầu tư theo quy định của pháp luật về đầu tư.
Về ngoại hối, theo Nghị quyết, việc sử dụng ngoại tệ trong các giao dịch giữa thành viên TTTCQT với tổ chức, cá nhân trên lãnh thổ Việt Nam không phải là thành viên TTTCQT phải tuân thủ pháp luật hiện hành về sử dụng ngoại hối trên lãnh thổ Việt Nam. Nghĩa là vẫn phải thực hiện bằng đồng Việt Nam (VND), trừ một số trường hợp đặc biệt theo pháp luật. Điều này bị LS Đức cho là cũng có thể gây e ngại cho NĐT…
Cạnh đó, NĐT nước ngoài không phải thực hiện thủ tục đăng ký góp vốn, mua cổ phần, mua phần vốn góp theo quy định của pháp luật về đầu tư (thường gọi là thủ tục xin “M&A Approval”) khi thực hiện hoạt động góp vốn, mua cổ phần, mua phần vốn góp của thành viên TTTCQT.
Tuy nhiên, LS Đức và LS Nguyễn Hà Phương (Cty Luật Allen Overy Shearman Sterling) cùng cho rằng, một trong những mối quan tâm hàng đầu của các NĐT nước ngoài cũng như các định chế tài chính quốc tế khi cân nhắc rót vốn vào TTTCQT; là cơ chế, chính sách với hoạt động đầu tư từ TTTCQT ra lãnh thổ Việt Nam. Lý do là các NĐT nước ngoài khi đầu tư vào Việt Nam không chỉ hướng tới các cơ hội trong phạm vi TTTCQT, mà còn kỳ vọng tận dụng được tiềm năng to lớn của nền kinh tế Việt Nam với quy mô dân số lên tới 100 triệu người.
Theo các quy định tại Nghị quyết 222, thành viên TTTCQT vẫn bị xem là “chủ thể nước ngoài” hoặc “người không cư trú”. Điều này đồng nghĩa với việc các giao dịch giữa thành viên TTTCQT và các chủ thể khác trên lãnh thổ Việt Nam vẫn phải tuân thủ các quy định pháp luật hiện hành về đầu tư và quản lý ngoại hối.
Cũng theo Nghị quyết 222, hoạt động đầu tư từ TTTCQT vào lãnh thổ Việt Nam hoặc ngược lại phải tuân thủ các quy định của pháp luật về đầu tư và pháp luật liên quan khác. Nghĩa là vẫn phải thực hiện các thủ tục như xin GCNĐKĐT, xin M&A Approval, về chính sách thuế...

LS Trần Anh Đức.
LS Đức nhìn nhận, trước thực tế đó, nhiệm vụ cấp thiết hiện nay là xây dựng và ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành Nghị quyết, đặc biệt tập trung vào các lĩnh vực đầu tư, ngoại hối và tài chính giữa TTTCQT và bên ngoài TTTCQT thuộc lãnh thổ Việt Nam.
“Quy định của Nghị quyết là “Hoạt động đầu tư, kinh doanh và ngoại hối giữa TTTCQT và lãnh thổ Việt Nam vẫn phải tuân theo quy định hiện hành” có thể làm giảm đáng kể sức hấp dẫn với các NĐT nước ngoài khi cân nhắc đầu tư vào TTTCQT của Việt Nam. Bởi nó không có sự khác biệt giữa đầu tư trực tiếp từ nước ngoài vào thị trường nội địa với 100 triệu dân với đầu tư từ TTTCQT của Việt Nam vào thị trường nội địa. Điều này có thể dẫn đến khó huy động vốn nước ngoài phục vụ nền kinh tế thông qua TTTCQT”, LS Đức nói, đồng thời đề xuất:
“Theo tôi, cần xem xét có văn bản hướng dẫn thêm rằng, có thể áp dụng cơ chế ưu đãi hơn với hoạt động đầu tư từ TTTCQT vào lãnh thổ Việt Nam trong một số một số lĩnh vực cần khuyến khích đầu tư như giáo dục, y tế, nông nghiệp… Hoặc cho phép chuyển vốn tự do với các lĩnh vực nằm ngoài danh sách đầu tư có điều kiện với NĐT nước ngoài”,
Cần kéo dài thời gian hưởng ưu đãi thuế thu nhập cá nhân
Về chính sách miễn thuế thu nhập cá nhân (TNCN) trong TTTCQT, theo LS Nguyễn Hà Phương, chính sách này chỉ kéo dài đến hết 2030. Nếu đến cuối 2025, TTTCQT mới bắt đầu hình thành, thì thời gian thực tế để các cá nhân làm việc tại đây được hưởng ưu đãi thuế TNCN sẽ rất ngắn. Điều này có thể làm giảm sức hấp dẫn của TTTCQT với nguồn nhân lực chất lượng cao, đặc biệt là các chuyên gia nước ngoài. Sau 2030, nếu áp dụng lại mức thuế TNCN lũy tiến như hiện hành, với mức cao nhất lên tới 35%; thì lợi thế cạnh tranh về thuế TNCN của TTTCQT sẽ không còn.
LS Phương cho rằng, nên cân nhắc xây dựng chính sách thuế TNCN ưu đãi áp dụng sau năm 2030. Có thể tham khảo kinh nghiệm từ các TTTCQT thành công như Singapore và Hồng Kông (Trung Quốc), nơi thuế suất TNCN lũy tiến cao nhất chỉ là 24%.
Bà Bùi Trần Thiên Hương (Khoa Luật Quốc tế, Trường Đại học Luật TP HCM) góp ý, các ưu đãi trong Nghị quyết 222 đã quy định thủ tục cấp thị thực sao cho dễ dàng hơn, giảm thuế TNCN và miễn giấy phép lao động. “Tuy nhiên, nếu nhìn vào TTTCQT Busan (Hàn Quốc) thì có thể thấy, các chính sách trợ cấp của TTTCQT này không chỉ tập trung vào việc thu hút đầu tư ban đầu (trợ cấp đất đai, thiết bị) mà còn quan tâm yếu tố bền vững như phát triển nhân lực (đào tạo), giảm chi phí sinh hoạt (hỗ trợ thuê nhà), điều thực sự tạo nên sự khác biệt chính là chính sách hỗ trợ các chuyên gia quốc tế và gia đình họ. Đây là cách tiếp cận cần được tham khảo cho TTTCQT tại Việt Nam. Ngoài ra, Việt Nam có thể hỗ trợ tư vấn pháp lý cho các NĐT nước ngoài trong việc làm thủ tục hành chính tham gia TTTCQT tại nước ta tương tự như Thụy Sĩ”, bà Hương nói.
Bên cạnh đó, trong giai đoạn trước mắt, khi TTTCQT mới đi vào vận hành, quy định pháp luật cần cho phép các DN, tổ chức hoạt động tại TTTCQT được sử dụng lao động nước ngoài không hạn chế; có cơ chế xuất nhập cảnh, điều kiện về tạm trú dài hạn; thậm chí điều kiện nhập quốc tịch, mua nhà cho chuyên gia, người lao động có tay nghề trong TTTCQT cần thông thoáng để có thể thu hút được lực lượng lao động có trình độ cao…
Một vấn đề khác, theo LS Đức, theo tinh thần Nghị quyết 222, phán quyết của trọng tài nước ngoài (TTNN) liên quan hoạt động kinh doanh trong TTTCQT vẫn phải thông qua thủ tục công nhận và cho thi hành phán quyết của TTNN tại Việt Nam như hiện hành. Trên thực tế, tỷ lệ hủy phán quyết TTNN tại Việt Nam là tương đối đáng kể, dẫn đến tâm lý e ngại cho NĐT nước ngoài.
“Trong quá trình xây dựng các văn bản hướng dẫn Nghị quyết, Chính phủ có thể cân nhắc cho phép các phán quyết của TTNN liên quan đến hoạt động kinh doanh trong TTTCQT được có hiệu lực thi hành ngay mà không cần thông qua thủ tục công nhận và cho thi hành phán quyết của TTNN tại Việt Nam”, LS Đức nói.
(Còn tiếp)