Hiệu ứng domino của khủng hoảng tiền tệ
Không chỉ dừng lại ở một quốc gia, khủng hoảng tiền tệ thường lan rộng ra cả khu vực, thậm chí vươn tới những nền kinh tế cách xa về địa lý. Sự rút vốn ồ ạt, nỗi lo mất khả năng thanh toán và tâm lý đám đông khiến các thị trường mới nổi dễ dàng rơi vào vòng xoáy khủng hoảng.
Trong suốt lịch sử, tác động của một cuộc khủng hoảng tiền tệ hiếm khi chỉ giới hạn ở một quốc gia. Như chúng ta đã thấy ở Mỹ Latinh, châu Âu và châu Á, các nước láng giềng thường phải gánh chịu hậu quả tương tự nhau. Khủng hoảng tiền tệ có xu hướng tác động đến cả khu vực bởi vì các quốc gia gần nhau về mặt địa lý thường hợp nhất với nhau bằng quan hệ thương mại.
Khủng hoảng ở một quốc gia khiến cho đồng tiền bị mất giá nhanh và mạnh cũng có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến năng lực cạnh tranh của các nước láng giềng. Ngoài ra, các quốc gia có vị trí địa lý gần nhau thường xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ tương tự nhau, khiến họ trở thành đối thủ cạnh tranh trên thị trường toàn cầu và/hoặc cùng tham gia vào một chuỗi cung ứng toàn cầu. Nếu một quốc gia phá giá tiền tệ, các quốc gia láng giềng có thể cũng phải làm điều tương tự để duy trì năng lực cạnh tranh xuất khẩu.

Khủng hoảng tiền tệ có xu hướng tác động đến cả khu vực. Ảnh: Freepik
Sự tương đồng về văn hóa và ngôn ngữ giữa các nước láng giềng thường cho thấy họ không chỉ có cơ cấu, thể chế và chính sách kinh tế giống nhau mà còn có những điểm yếu tương tự nhau. Cuộc khủng hoảng tài chính ở châu Á lan rộng là do các nhà đầu tư mất niềm tin vào lĩnh vực ngân hàng của cả khu vực.
Bài học quan trọng về cuộc khủng hoảng tiền tệ thế hệ thứ ba là nó có tính lây lan. Tức là cú sốc hay khủng hoảng bắt nguồn từ một nước đã lan rộng sang các nước khác.
Ví dụ, cuộc khủng hoảng ở châu Á đã khiến dòng vốn chảy ra khỏi Nam Mỹ với quy mô lớn, mặc dù các nền kinh tế ở hai khu vực rất khác nhau về cơ cấu, cách xa nhau về địa lý và có rất ít mối liên kết thương mại hay tài chính (mà kể cả nếu có thì khủng hoảng cũng thường lan truyền với tốc độ chậm hơn nhiều).

Sách Đại địa chấn kinh tế.
Một cách giải thích cho sự lây lan này là trong lúc thị trường căng thẳng và bất ổn tăng cao, khẩu vị rủi ro của các nhà đầu tư có thể giảm bớt nên họ thu hồi dòng vốn ở cả các thị trường khác. Các nền kinh tế mới nổi đã tăng trưởng mạnh mẽ nhưng sự tăng trưởng này có thể không bền vững. Lý do là họ thiếu các tổ chức tài chính chính thức ổn định trong giai đoạn phát triển nên dễ bị khủng hoảng tài chính hơn. Do đó, đầu tư tài sản ở các thị trường mới nổi có thể mang đến lợi nhuận cao, nhưng với cái giá là rủi ro cũng cao hơn. Trái lại, các nền kinh tế phát triển cung cấp một kiểu danh mục đầu tư hơi khác, vì tài sản ở những thị trường lớn, giàu có và bền vững ít gặp rủi ro, nhưng lợi nhuận tương ứng cũng thấp hơn.
Bất chấp nền tảng kinh tế đa dạng, tất cả nền kinh tế mới nổi đều phải chịu ảnh hưởng vì tâm lý lo ngại rủi ro ngày càng tăng. Mô hình thế hệ thứ ba đã thể hiện rõ rằng các nhà đầu tư càng lo sợ rủi ro thì khả năng xảy ra khủng hoảng ở các thị trường mới nổi càng tăng. Khi khủng hoảng nổ ra, không một nhà đầu tư nào muốn đứng ở vị trí cuối cùng trong cuộc đua rút vốn, vì tình trạng vỡ nợ có thể xảy ra trước khi họ kịp thanh lý tài sản của mình. Nỗi lo sợ này có thể lây lan và dẫn đến hành vi “bầy đàn” trong giới đầu tư, đẩy mạnh thêm khủng hoảng tiền tệ.
Nguồn Znews: https://znews.vn/hieu-ung-domino-cua-khung-hoang-tien-te-post1583802.html