Hình tượng voi trong đời sống văn hóa
Hình tượng voi đã đi vào trong truyện cổ, truyền thuyết, gắn với đời sống văn hóa, tín ngưỡng của các tộc người sinh sống ở Quảng Ngãi nói riêng và Việt Nam nói chung.
Theo các nguồn sử liệu, ngay từ buổi đầu, cách đây khoảng 2000 - 2500 năm, những nghệ nhân văn hóa Đông Sơn đã khắc họa hình tượng voi trên đồ đồng với nhiều loại hình khác nhau như: Tượng tròn hình voi trên cán dao, hoa văn hình voi trên trống đồng Đông Sơn với chiều dài hơn 10mm, thân mập, đuôi ngắn, vòi cong hình lưỡi câu.

Tượng Gajasimha, niên đại thế kỷ XI được khai quật tại tháp Chánh Lộ (phường Chánh Lộ) tại Bảo tàng tổng hợp tỉnh Quảng Ngãi.
Theo tín ngưỡng của người Chăm, Ganesha (voi thần) mang trong mình sức mạnh của voi, sự thông minh, trí tuệ của con người và được xem là biểu tượng của sự thông thái, giàu có và thịnh vượng. Trong nghệ thuật điêu khắc Chăm, hình tượng voi hiện diện nhiều ở các di tích tháp cổ hết sức sống động và hiện thực.
Thánh địa Mỹ Sơn, thôn Duy Xuyên, xã Thu Bồn, TP.Đà Nẵng được mệnh danh vùng đất của Thần, Vua và những huyền thoại.
Ganesha - vị thần đầu voi mình người là một trong những vị thần Ấn Độ giáo được thờ cúng phổ biến nhất.
Một số phù điêu Ganesha được đắp nổi, chạm nổi trên các tường vách của đền tháp ở Mỹ Sơn bằng chất liệu gạch đất nung hay đá sa thạch như: Tượng Ganesha thuộc Mỹ Sơn B5, thế kỷ X; tượng voi - sư tử (Gajasimha) thuộc khu tháp D1, niên đại thế kỷ XI - XII; tượng Ganesha ở E3 Mỹ Sơn theo kiểu Ấn Độ, niên đại thế kỷ X; tượng Ganesha (sa thạch), Mỹ Sơn B, niên đại thế kỷ X. Vị thần này được thờ cúng như một vị thần bảo hộ cho những ai muốn khởi sự một công việc mới.
Còn đối với người Khơmer, voi trắng ba đầu Airavata - vật cưỡi của thần Inđra là biểu tượng của hoàng gia, sự hiện diện của voi có khả năng tạo ra mây và mưa trên trần gian bằng cách vươn dài cái vòi của mình xuống nguồn nước ngầm dưới lòng đất và phun nó lên trần gian để tạo ra những cơn mưa mát mẻ.
Dưới thời phong kiến, đơn vị tác chiến đặc thù của quân đội triều Nguyễn là pháo binh và tượng binh. Năm Kỷ Hợi (1839), vua Minh Mạng đã cho khắc trên bình tế lễ hình thớt voi những dòng sau “Voi có nhiều nơi nhưng voi ở nước ta là khỏe hơn cả. Con vật này không hề sợ lao, tên và các loại vũ khí khác, chở vật hạng nặng. Sự hiện diện của voi trong tế lễ tăng vẻ uy nghi hơn...”.
Ở Kinh thành, tượng binh được xếp vào ngạch cấm binh. Số lượng ngạch voi do nhà nước quy định, đơn vị đếm là thớt (thất, được hiểu nghĩa là con).

Hoa văn hình voi trên trống đồng Đông Sơn.
Ngày 10 tháng 9 năm Minh Mệnh thứ 3 (1822), doanh Quảng Nam tâu “xin xuất tiền mua và cấp phát tiền lương cho các thợ để làm 10 nhà cho voi ở”. Ngày 16 tháng 11 cùng năm, Tổng trấn Bắc Thành phái 20 thớt voi đực và một đội vệ binh hộ đệ số voi ấy đến Bắc Thành để dọn dẹp bọn thổ phỉ Lý Khai Hoa ở châu Thủy Vũ, trấn Hưng Hóa và kìm chế bọn manh động trong trấn.
Theo Đại Nam thực lục - tập 5, hình tượng voi còn được khắc trên Nghị đỉnh, một trong chín cái đỉnh bằng đồng được vua Minh Mạng cho khởi công đúc vào tháng 10 năm Ất Mùi (1835) đến năm Đinh Dậu (1837) thì đúc xong và được thờ trong Thế Miếu.
Ở Quảng Ngãi, hình tượng voi cũng mang những nét đặc trưng riêng theo hình thế, địa danh, tín ngưỡng...
Trong các cuộc khai quật di tích tháp Chánh Lộ, các nhà khảo cổ học người Pháp đã phát hiện nhiều di vật Champa có giá trị, định hình phong cách Chánh Lộ, trong đó có cặp tượng Gajasimha, niên đại thế kỷ XI với những đường nét thanh gọn, đầy sức sống. Hiện vật đang trưng bày tại Bảo tàng Tổng hợp tỉnh Quảng Ngãi.
Năm 1806, triều đình chuẩn cho tỉnh Quảng Ngãi ngạch voi 20 thớt; năm 1829 ngạch voi 15 thớt. Vì vậy, voi được xem là tài sản của quốc gia nên được triều Nguyễn hết sức coi trọng.
Những sử hay, tích cũ được các nhà chính sử triều Nguyễn ghi lại, ở huyện Chương Nghĩa (nay là xã Tư Nghĩa) có ngọn núi cao hơn 1000 thước, hình dáng giống một con voi đứng, dân gian gọi là núi Lão Voi (núi Đầu Voi).
Còn ở làng Tân Hy, huyện Bình Sơn (nay là xã Vạn Tường), năm Tự Đức thứ 5 (1851), nhân dân trong làng đào được tượng đá trắng đầu voi mình người và hai viên đá tròn lớn như trứng ngỗng, liền lập miếu thờ tên “Kim thần tượng” (chùa Tân Hy) thờ tượng Bà Voi.
Ở phía tây Quảng Ngãi, mỗi dân tộc đều có một cách gọi tôn kính khác nhau đối với hình tượng con voi. Người dân tộc Ba Na gọi là Bốc Rôi (ông Voi). Người dân tộc Cor gọi là Kât, Kôk.
Khi xưa, nơi đại ngàn vùng người Cor sinh sống được mệnh danh “xứ sở của voi”. Voi to lớn, dữ tợn, sống thành bầy, đàn khoảng 50 - 60 con, nhất là vùng Nà Niêu (xã Tây Trà) và trở thành nỗi sợ hãi của con người. Người Cor phải làm chòi canh trên cây cao để trông chừng voi và chim thú. Khi voi đến, người giữ rẫy sẽ hú thật to và đốt lửa để đuổi voi đi.
Từ đó, voi cũng trở thành một phần trong đời sống người dân nơi đây. Voi đi vào truyện cổ, trong nghệ thuật tạo hình trên tấm Vla phol (theo cách gọi của người Cor) khắc vạch trong lễ hội ăn trâu và một đôi bạch tượng được thờ tự tại Điện Trường Bà, thôn Trà Xuân, xã Trà Bồng.
Bài, ảnh: HỒNG HÀ
Nguồn Quảng Ngãi: https://baoquangngai.vn/hinh-tuong-voi-trong-doi-song-van-hoa-71731.htm












![[Video_Chạm 95] Xã Định Quán](https://photo-baomoi.bmcdn.me/w250_r3x2/2025_12_20_423_54058940/9c5258b0b3f95aa703e8.jpg)