Hỗ trợ người sản xuất quy mô nhỏ nâng cao thu nhập thông qua phát triển chuỗi giá trị toàn diện
Đây là kinh nghiệm đúc kết sau 5 năm (2018-2023) thực hiện Dự án 'Phát triển bền vững và toàn diện chuỗi giá trị nghêu và tre tại Việt Nam' (SCBV) trị giá 4,3 triệu EURO do Liên minh Châu Âu tài trợ triển khai tại năm tỉnh Nghệ An, Thanh Hóa, Tiền Giang, Trà Vinh và Bến Tre.
Dự án do tổ chức Oxfam tại Việt Nam phối hợp triển khai cùng Trung tâm Nghiên cứu lâm sản ngoài gỗ (thuộc Viện Khoa học Lâm nghiệp - Bộ Nông nghiệp & Phát triển nông thôn), Trung tâm Hợp tác Quốc tế Nuôi trồng và Khai thác thủy sản bền vững (thuộc Hội Thủy sản Việt Nam), Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI). Đây là một sáng kiến nằm trong nỗ lực của Liên minh Châu Âu cùng làm việc với các tổ chức xã hội tại Việt Nam nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống của tất cả mọi người và đạt được các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ vào năm 2030.
Theo đánh giá của Dự án vào năm 2018, khoảng 1,5 triệu người sản xuất quy mô nhỏ tại Việt Nam có nguồn thu nhập từ sản xuất, chế biến nghêu và tre. Tuy nhiên, họ phải đối mặt với nhiều khó khăn và thách thức hơn so với các tác nhân khác trong chuỗi giá trị. Phần lớn người sản xuất nhỏ có thu nhập thấp và vẫn là hộ nghèo và cận nghèo. Trong khi đó, vùng nguyên liệu tre bị nghèo kiệt do thoái hóa, khai thác quá mức và thiếu chăm sóc. Các bãi nghêu tại ba tỉnh Trà Vinh, Tiền Giang và Bến Tre đang bị thu hẹp và có xu hướng phân bố xa bờ hơn. Các doanh nghiệp chế biến vừa và nhỏ gặp nhiều khó khăn do hạn chế về quy mô, công nghệ, khả năng thu mua nguyên liệu và thiếu thị trường tiêu thụ sản phẩm. Các công ty lớn là cầu nối xuất khẩu lại thiếu kết nối trực tiếp với các vùng sản xuất nên nguồn nguyên liệu đầu vào không ổn định cả về chất lượng và sản lượng.
Lấy các tiêu chuẩn bền vững làm định hướng phát triển sản xuất, Dự án đã phối hợp cùng các địa phương cải tiến kỹ thuật cho nông dân nhằm đạt các chứng chỉ quốc tế như MSC (Marine Stewardship Council) và ASC (Aquaculture Stewardship Council) dành cho nghêu, FSC (Forest Stewardship Council) dành cho tre. Các chứng chỉ này không chỉ là giấy thông hành tới những thị trường xuất khẩu lớn như Mỹ, Châu Âu, Nhật…mà còn giúp bảo tồn vùng nguyên liệu nghêu và tre bền vững, hạn chế tối đa các tác động về môi trường và xã hội.
Năm 2019, huyện Quan Hóa (Thanh Hóa) là địa phương đầu tiên trong cả nước đạt chứng chỉ FSC cho Tre, kế tiếp đến các huyện Quế Phong (Nghệ An) và huyện Quan Sơn (Thanh Hóa) liên tiếp đạt chứng chỉ này. Đầu năm 2023, Trà Vinh là vùng nuôi nghêu thứ ba trên thế giới đạt Chứng nhận ASC. Đây được nhận định là những bước tiến dài cho ngành nghêu và tre của Việt Nam.
TS. Phan Văn Thắng, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Lâm sản ngoài gỗ cho biết: “Trước đây, rừng tre khi chưa được giao cho cộng đồng, hộ gia đình quản lý, chưa áp dụng các biện pháp kỹ thuật chăm sóc, nuôi dưỡng, phục tráng và khai thác bền vững theo yêu cầu về quản lý rừng bền vững, rừng tre thường sinh trưởng kém, thân cây nhỏ và bị suy thoái với năng suất không cao, chất lượng thấp, không đồng đều. Sau khi rừng tre được giao cho cộng đồng, hộ gia đình quản lý, người dân đã áp dụng và tác động các biện pháp kỹ thuật theo đúng quy trình bảo vệ, chăm sóc, nuôi dưỡng, phục tráng, khai thác bền vững và được cấp chứng chỉ quản lý rừng bền vững FSC nên rừng tre sinh trưởng tốt hơn, cho năng suất cao hơn, chất lượng đồng đều hơn và đem lại giá trị kinh tế, xã hội và môi trường cao hơn rất nhiều so với trước”.
Song song với đổi mới kỹ thuật sản xuất, điều kiện quan trọng để chuỗi giá trị nông nghiệp vận hành hiệu quả và mang lại lợi ích cho các bên là nâng cao năng lực quản trị chuỗi. Điều này được thực hiện thông qua việc tổ chức sản xuất theo tổ nhóm hoặc hợp tác xã thay vì hộ cá thể nhỏ lẻ, đổi mới tư duy quản trị hợp tác xã, tăng cường kết nối giữa doanh nghiệp và hợp tác xã/tổ nhóm dựa trên các thỏa thuận hợp tác sản xuất-thu mua theo tiêu chuẩn bền vững, các doanh nghiệp xuất khẩu nắm bắt kịp thời nhu cầu thị trường.
Theo tiến sĩ Lê Thanh Lựu, Giám đốc Trung tâm Hợp tác Quốc tế Nuôi trồng và Khai thác thủy sản bền vững (ICAFIS), “Chuyển từ khai thác đơn lẻ sang sản xuất theo hợp tác xã giúp người sản xuất nhỏ có điều kiện áp dụng các sáng kiến kỹ thuật đòi hỏi nguồn lực đầu tư nhiều hơn nhưng đem lại giá trị sản lượng cao hơn như kỹ thuật bảo tồn nghêu giống, nuôi và khai thác nghêu nước sâu, làm sạch cát và phân loại theo nhiều kích cỡ trước khi đóng gói… Các hợp tác xã cũng có lợi thế hơn khi họ thiết kế thương hiệu nghêu của mình, đóng gói bao bì, bảo quản lạnh và chủ động tiếp cận thị trường so với trước kia các hộ chỉ bán nghêu khai thác cho thương lái”.
Phó Chủ tịch Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) Hoàng Quang Phòng chia sẻ: “Dự án đã thúc đẩy các doanh nghiệp kinh doanh bao trùm, kinh doanh tạo tác động. Đây là một xu hướng trên thế giới, đòi hỏi sự phát triển của doanh nghiệp cần kết hợp hài hòa với các bên liên quan khác nhằm thúc đẩy phát triển của cả chuỗi giá trị và ngành bền vững. Mô hình này đi đôi với các tiêu chuẩn sản xuất bền vững sẽ giúp mở rộng cánh cửa vào các thị trường xuất khẩu khó tính”.
Mặc dù trải qua hai năm đại dịch COVID-19 ảnh hưởng không nhỏ tới tiến độ dự án, thị trường tiêu thụ và các yếu tố sản xuất, Dự án “Phát triển bền vững và toàn diện chuỗi giá trị nghêu và tre tại Việt Nam” đã đạt được những kết quả quan trọng: hơn 34 nghìn người có thu nhập bền vững hơn từ sản xuất nghêu và tre; 125 nhóm sản xuất được tổ chức tốt hơn; 63 doanh nghiệp cải thiện sản xuất kinh doanh, nâng cao giá trị gia tăng và có chính sách kinh doanh bao trùm; hơn 4000 việc làm mới được tạo ra; góp phần tăng xuất khẩu nghêu của Việt Nam sang Châu Âu từ 38 đến 40%, xuất khẩu tre tăng 42%; đóng góp xây dựng chính sách quốc gia và định hướng phát triển vùng nghêu/tre cấp tỉnh.
Bà Vũ Thị Quỳnh Hoa, Giám đốc Quốc gia, Oxfam tại Việt Nam nhấn mạnh “Phát triển chuỗi giá trị toàn diện và nâng cao năng lực quản lý chuỗi không chỉ hướng tới tăng thu nhập của từng mắt xích trong chuỗi, mà quan trọng hơn là chuỗi giá trị được tổ chức công bằng, lợi ích và rủi ro được chia sẻ giữa các bên. Từ đó, người sản xuất nhỏ vốn chịu nhiều thiệt thòi trước đây sẽ được hưởng lợi ích công bằng từ tăng trưởng. Đó là động lực để họ phát huy vai trò chủ thể của những thực hành sản xuất bền vững, bảo tồn nguồn lợi thiên nhiên và tạo ra lợi ích xã hội cho cộng đồng”.
Một số hình ảnh tại Hội nghị: