Hoàn thiện chính sách quản lý rác thải sinh hoạt
'Dù hệ thống văn bản pháp luật về quản lý chất thải rắn sinh hoạt đã cơ bản được ban hành đồng bộ, thể hiện nỗ lực rất lớn của Chính phủ và các địa phương, nhưng quá trình triển khai vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế, gây lúng túng trong thực thi'.
Đây là nhận định của Phó Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật và Tư pháp Nguyễn Thị Mai Phương tại tọa đàm “Các giải pháp tổng thể quản lý chất thải rắn sinh hoạt” do Báo Đại biểu Nhân dân tổ chức sáng 23.9.
Tọa đàm diễn ra trong bối cảnh Quốc hội đang tiến hành giám sát chuyên đề việc thực hiện chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường kể từ khi Luật Bảo vệ môi trường năm 2020, có hiệu lực từ ngày 1/1/2022.
Nỗ lực đáng khích lệ trong xây dựng hành lang pháp lý
Dù ghi nhận những kết quả tích cực sau 5 năm thực thi luật như tỷ lệ thu gom, xử lý rác thải ngày càng tăng, áp dụng công nghệ hiện đại , nhưng thực tế cho thấy tỷ lệ chôn lấp trực tiếp vẫn còn cao và công tác quản lý còn nhiều khó khăn.

Phó Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật và Tư pháp Nguyễn Thị Mai Phương phát biểu tại tại tọa đàm “Các giải pháp tổng thể quản lý chất thải rắn sinh hoạt” sáng 23.9. Ảnh: Duy Thông
Với tư cách là thành viên Đoàn giám sát của Quốc hội, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật và Tư pháp Nguyễn Thị Mai Phương đã có những đánh giá chi tiết về quá trình hoàn thiện chính sách, pháp luật liên quan đến vấn đề này. Theo đó, Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 là một luật lớn với nội dung mới, tiếp cận trình độ thế giới theo hướng kinh tế tuần hoàn, đặt ra yêu cầu cao về bảo vệ môi trường. Do đó, khối lượng văn bản cần ban hành để hướng dẫn chi tiết là rất lớn.
“Qua giám sát, chúng tôi thấy nỗ lực rất cao của Chính phủ và đặc biệt là Bộ Nông nghiệp và Môi trường trong việc thể chế hóa, cụ thể hóa các quy định của Luật”, bà Phương nhận định.
Đến nay, đã có 3 Nghị định của Chính phủ, 3 Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, 8 Thông tư của Bộ Nông nghiệp và Môi trường và các văn bản của những bộ khác được ban hành. Đặc biệt, Nghị định 08/2022/NĐ-CP (được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định 05/2025/NĐ-CP) đã tạo ra một hành lang pháp lý vững chắc cho việc xử lý chất thải rắn sinh hoạt.
Sự nỗ lực không chỉ đến từ Trung ương mà còn lan tỏa mạnh mẽ tới các địa phương. Thống kê cho thấy đã có 56/63 tỉnh, thành phố (trước khi sáp nhập) ban hành quy định về quản lý chất thải. Trong số đó, 34/63 địa phương đã có quy định cụ thể về phân loại chất thải rắn sinh hoạt tại nguồn.
Lý giải về con số này, bà Phương cho biết Luật Bảo vệ môi trường có hiệu lực từ ngày 1/1/2022 nhưng quy định bắt buộc phân loại rác tại nguồn chỉ thực hiện từ ngày 1/1/2025, giai đoạn trước đó chỉ mang tính khuyến khích. Do vậy, việc có 34/63 tỉnh, thành phố đi trước một bước là một kết quả lớn, cho thấy sự quan tâm của các địa phương đối với việc thực thi luật.
Những bất cập cần sớm khắc phục
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đáng ghi nhận, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật và Tư pháp Nguyễn Thị Mai Phương cũng thẳng thắn chỉ ra những hạn chế, bất cập nổi bật trong công tác ban hành văn bản chi tiết.
Thứ nhất, do khối lượng văn bản đồ sộ, hầu hết đều được ban hành theo trình tự, thủ tục rút gọn. Bà Nguyễn Thị Mai Phương phân tích, với trình tự, thủ tục rút gọn, các quy định không phải qua bước đánh giá tác động chính sách, đánh giá thực tiễn, hạn chế trong việc lấy ý kiến của nhân dân… Do đó, phần nào hạn chế quyền tiếp cận của người dân cũng như tiếp cận trong việc truyền thông chính sách.

Các đại biểu dự Tọa đàm do Báo Đại biểu Nhân dân tổ chức sáng 23/9. Ảnh: Duy Thông
Thứ hai, một số văn bản quan trọng được ban hành chậm, gây ảnh hưởng dây chuyền. Cụ thể, Thông tư 36/2024/TT-BTNMT về định mức kinh tế - kỹ thuật cho hoạt động thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải rắn sinh hoạt mãi đến ngày 20/12/2024 mới được ban hành, khiến các địa phương cũng chậm theo.
Thứ ba, sự phối hợp giữa các bộ, ngành và địa phương còn nhiều bất cập. Ví dụ điển hình là Nghị định 08/2022/NĐ-CP mới ban hành đã phải sửa đổi. “Sự thay đổi nhanh như vậy cũng gây khó khăn cho các tổ chức, cá nhân khi áp dụng pháp luật”, bà Nguyễn Thị Mai Phương nhấn mạnh.
Những bất cập này dẫn đến tình trạng dù đã ban hành quy định nhưng các địa phương vẫn rất lúng túng trong việc áp dụng đơn giá, định mức kinh tế kỹ thuật đối với rác thải sau xử lý.
"Nhìn chung, có thể khẳng định rằng kết quả hướng dẫn và ban hành văn bản chi tiết là đáng khích lệ, nhưng vẫn còn nhiều vấn đề cần phải xử lý, sửa đổi để đáp ứng tình hình mới. Trong thời gian tới, cần có sự phối hợp mạnh mẽ hơn nữa giữa các cơ quan Nhà nước, doanh nghiệp và tổ chức trong cả việc tuyên truyền, vận động lẫn giám sát thực thi các quy định về bảo vệ môi trường", bà Nguyễn Thị Mai Phương nhận định.