Hoàn thiện Luật Phá sản để tăng hiệu quả phục hồi doanh nghiệp
Chiều 21/11, thảo luận về Dự án Luật Phá sản (sửa đổi), các đại biểu Quốc hội cho rằng, việc sửa đổi toàn diện luật sau hơn 11 năm thi hành là cấp thiết nhằm khắc phục các bất cập của pháp luật hiện hành, bảo đảm hài hòa lợi ích của doanh nghiệp, chủ nợ và người lao động, đặc biệt là nâng cao hiệu quả thủ tục phục hồi.
Các ý kiến tập trung vào yêu cầu hoàn thiện thẩm quyền của tòa án, bảo đảm quyền tiếp cận chứng cứ, nâng cao vai trò của chủ nợ, quy định rõ ràng về phục hồi và giữ vững nguyên tắc kiểm soát quyền lực tư pháp.
Làm rõ nhiệm vụ của tòa án và bảo đảm minh bạch trong thu thập chứng cứ
Đánh giá hơn một thập kỷ thực thi Luật Phá sản 2014, đại biểu Quốc hội Nguyễn Danh Tú (Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh An Giang) nhấn mạnh, nhiều vụ phá sản kéo dài đến 10-16 năm nhưng vẫn chưa hoàn tất, cho thấy yêu cầu cấp bách phải sửa đổi toàn diện Luật.

Theo đại biểu Quốc hội Nguyễn Danh Tú (Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh An Giang), nhiều vụ phá sản kéo dài đến 10-16 năm nhưng vẫn chưa hoàn tất, cho thấy yêu cầu cấp bách phải sửa đổi toàn diện Luật. Ảnh: Quochoi.vn
Góp ý về nhiệm vụ và quyền hạn của thẩm phán, đại biểu Quốc hội Nguyễn Danh Tú đề nghị bổ sung quy định về trách nhiệm kiểm tra, thẩm định tính xác thực của tài liệu, chứng cứ. Theo đại biểu, dù dự thảo đã chuyển thẩm quyền thu thập chứng cứ sang các bên, nhưng tòa án vẫn phải bảo đảm chứng cứ được sử dụng là khách quan và hợp pháp. Việc này cũng phù hợp với Luật Tổ chức Tòa án nhân dân.
Liên quan quyền tiếp cận tài liệu, đại biểu Quốc hội Trần Nhật Minh (Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Nghệ An) nêu vấn đề đối với quy định loại trừ tài liệu chứa “bí mật nghề nghiệp”. Theo đại biểu, pháp luật hiện hành chưa có khái niệm này, dễ dẫn đến tùy tiện trong áp dụng. Vì vậy, đại biểu Trần Nhật Minh đề nghị không sử dụng thuật ngữ “bí mật nghề nghiệp”, hoặc nếu giữ thì phải bổ sung định nghĩa cụ thể trong phần giải thích từ ngữ để tránh cản trở quyền tiếp cận chứng cứ.
Về giải quyết tranh chấp tài sản trong thủ tục phá sản, đại biểu Nguyễn Danh Tú cho rằng, dự thảo quy định giải quyết tranh chấp tại phiên họp nhưng không quy định trình tự tranh tụng, đồng thời quyết định có hiệu lực ngay, chỉ được xem xét lại theo thủ tục “gần như khiếu nại”. Ông đề nghị chỉnh lý để vừa đảm bảo đặc thù của thủ tục phá sản, vừa giữ nguyên tắc tố tụng và quyền của các bên.

Đại biểu Nguyễn Tâm Hùng (Đoàn đại biểu Quốc hội TP Hồ Chí Minh) đề nghị quy định rõ hơn thẩm quyền và căn cứ ra quyết định của thẩm phán khi giải quyết tranh chấp tài sản nhằm tránh việc phải xem xét lại nhiều lần và bảo đảm kiểm soát quyền lực tư pháp. Ảnh: Quochoi.vn
Đồng quan điểm, đại biểu Nguyễn Tâm Hùng (Đoàn đại biểu Quốc hội TP Hồ Chí Minh) đề nghị quy định rõ hơn thẩm quyền và căn cứ ra quyết định của thẩm phán khi giải quyết tranh chấp tài sản nhằm tránh việc phải xem xét lại nhiều lần và bảo đảm kiểm soát quyền lực tư pháp.
Thống nhất thủ tục phục hồi – phá sản và tăng vai trò giám sát của chủ nợ
Nhiều đại biểu cho rằng dự thảo cần quy định rõ hơn để bảo đảm thống nhất và khả thi khi áp dụng thủ tục phục hồi.
Đại biểu Nguyễn Danh Tú phân tích, dự thảo quy định khi doanh nghiệp mất khả năng thanh toán, người đại diện theo pháp luật vừa có quyền nộp đơn phục hồi, vừa có nghĩa vụ nộp đơn phá sản, nếu không thực hiện còn phải chịu trách nhiệm bồi thường. Cùng một tình trạng pháp lý nhưng dẫn đến hai kết quả khác nhau khiến doanh nghiệp rơi vào thế mâu thuẫn. Đại biểu đề nghị rà soát để thống nhất quyền và nghĩa vụ của người đại diện doanh nghiệp.
Đại biểu Quốc hội Phan Thị Mỹ Dung (Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Tây Ninh) cũng tập trung vào bất cập giữa hai thủ tục. Theo đại biểu, cùng sự kiện “mất khả năng thanh toán” nhưng lại dẫn đến hai hướng xử lý khác nhau do các chủ thể khác nhau nộp đơn, dễ gây xung đột thẩm quyền và kéo dài thời gian giải quyết. Do đó, cần làm rõ tiêu chí phân biệt, đồng thời tránh để doanh nghiệp hoặc chủ nợ lợi dụng nhằm trì hoãn hoặc gây sức ép.

Đại biểu Quốc hội Phan Thị Mỹ Dung (Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Tây Ninh). Ảnh: Quochoi.vn
Đại biểu Trần Nhật Minh cho rằng, cần bổ sung nguyên tắc, trình tự và giá trị pháp lý của hoạt động hòa giải do quản tài viên chủ trì, tránh khoảng trống pháp lý vì các luật khác không điều chỉnh trường hợp này.
Đại biểu Nguyễn Tâm Hùng cũng nhấn mạnh yêu cầu tăng cường giám sát hoạt động của doanh nghiệp sau khi tòa án thụ lý đơn. Đại biểu đề nghị các giao dịch quan trọng như vay vốn, chuyển nhượng tài sản phải được chấp thuận bằng văn bản của quản tài viên hoặc Ban đại diện chủ nợ, không chỉ dừng lại ở nghĩa vụ báo cáo như dự thảo quy định.
Liên quan vai trò của chủ nợ, đại biểu đề xuất cho phép chủ nợ đại diện từ 35% tổng nợ trở lên được tự triệu tập Hội nghị chủ nợ bất thường, giúp phản ứng kịp thời trước diễn biến xấu trong quá trình phục hồi.
Về thủ tục rút gọn, đại biểu Trần Nhật Minh cho rằng, mức tổng nợ 10 tỷ đồng là hợp lý nhưng nên để Tòa án Nhân dân Tối cao quy định chi tiết nhằm linh hoạt theo từng giai đoạn phát triển kinh tế.
Bảo vệ quyền lợi chủ nợ và khẳng định vai trò giám sát của Viện kiểm sát
Một trong những vấn đề được nhiều đại biểu quan tâm là bảo vệ quyền và lợi ích của các nhóm yếu thế - đặc biệt là chủ nợ nhỏ lẻ và người lao động.
Tại Điều 61 về Hội nghị chủ nợ, đại biểu Nguyễn Danh Tú lo ngại quy định Hội nghị có thể quyết định chuyển nhượng đồng bộ tài sản nhưng nghị quyết chỉ cần sự đồng ý của 65% chủ nợ không có bảo đảm. Điều này có thể khiến tài sản bảo đảm bị chuyển nhượng dù chủ nợ có bảo đảm không đồng ý. Đại biểu đề nghị chỉnh lý theo hướng mọi quyết định liên quan tài sản bảo đảm phải có sự đồng thuận của chủ nợ có bảo đảm.
Về quyền kháng nghị của Viện Kiểm sát nhân dân, đại biểu Trần Văn Tiến (Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Phú Thọ) đề nghị giữ nguyên quyền kháng nghị như luật hiện hành để đảm bảo giám sát hoạt động tư pháp, bảo vệ quyền của chủ nợ nhỏ lẻ, người lao động và những nhóm dễ bị tổn thương. Đại biểu cho rằng, dự thảo quy định chỉ được kháng nghị khi xâm phạm lợi ích công cộng hoặc lợi ích nhà nước là thu hẹp quyền hiến định của Viện Kiểm sát.

Đại biểu Trần Văn Tiến (Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Phú Thọ) thảo luận tại hội trường. Ảnh: Quochoi.vn
Đại biểu cũng đề nghị giữ quyền kiến nghị của Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao khi xem xét lại quyết định tuyên bố phá sản, đặc biệt trong hai trường hợp: Có vi phạm nghiêm trọng pháp luật về phá sản; Xuất hiện tình tiết mới có thể làm thay đổi nội dung quyết định.
Ngoài ra, đại biểu Trần Văn Tiến đề nghị mở rộng phạm vi điều chỉnh của luật để bao quát đầy đủ cả nội dung hợp tác quốc tế và giải quyết khiếu nại, tố cáo.
Hoàn thiện chính sách phục hồi, tăng tính khả thi và ngăn ngừa lạm dụng
Ở góc nhìn chính sách, đại biểu Nguyễn Tâm Hùng đánh giá cao việc bổ sung nguyên tắc và chính sách Nhà nước hỗ trợ phục hồi. Tuy nhiên, đại biểu lưu ý cần quy định rõ thời điểm và cơ quan chịu trách nhiệm ban hành chính sách; nếu chỉ giao Chính phủ hướng dẫn có thể gây chậm trễ, ảnh hưởng kết quả phục hồi vốn cần triển khai nhanh.
Về xử lý đơn yêu cầu phá sản, đại biểu Nguyễn Tâm Hùng đề nghị làm rõ tiêu chí xác định hành vi “không trung thực” và bổ sung cơ chế chống việc lợi dụng miễn lệ phí để gây cản trở hoạt động của doanh nghiệp.
Đại biểu Phan Thị Mỹ Dung cũng phân tích sự phức tạp của thủ tục phục hồi kéo dài 3-4 năm với nhiều bước, có nguy cơ khó thực hiện trong thực tiễn nếu không phân định rõ căn cứ, tiêu chí và tính khả thi của từng giai đoạn.
Về xử lý tài sản, đại biểu Nguyễn Tâm Hùng đề xuất nâng thứ tự ưu tiên đối với khoản nợ phát sinh phục vụ phục hồi lên ngay sau nợ lương và bảo hiểm để khuyến khích dòng vốn mới “bơm” vào doanh nghiệp.
Về cấm đảm nhiệm chức vụ sau phá sản, đại biểu Nguyễn Tâm Hùng đồng tình với mức 3 năm nhưng đề nghị quy định cụ thể trình tự, thủ tục và trách nhiệm chứng minh hành vi cố ý vi phạm để bảo đảm áp dụng thống nhất và tránh ảnh hưởng đến quyền tự do kinh doanh.
Ngoài ra, các đại biểu thống nhất rằng, Dự thảo Luật Phá sản (sửa đổi) cần tiếp tục được hoàn thiện để vừa bảo đảm nguyên tắc phục hồi doanh nghiệp, vừa xử lý phá sản một cách trật tự, minh bạch, rút ngắn thời gian tố tụng và bảo vệ tối đa quyền lợi hợp pháp của các bên. Đây là điều kiện quan trọng để cải thiện môi trường kinh doanh và tăng sức cạnh tranh của nền kinh tế.












