Hoàn thiện Nghị định về trao đổi quốc tế kết quả giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và tín chỉ carbon
Việc đặt hạn mức giao dịch rất cần thiết để đảm bảo yêu cầu điều chỉnh tương ứng theo Thỏa thuận Paris và đóng góp vào mục tiêu NDC của Việt Nam.

Ông Nguyễn Tuân Quang, Phó Cục trưởng Cục Biến đổi khí hậu phát biểu tại hội thảo.
Ngày 20/8, Chương trình Đối tác chuyển đổi năng lượng Đông Nam Á (ETP) phối hợp với Cục Biến đổi khí hậu (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) tổ chức hội thảo tham vấn “Đánh giá tác động đối với hoạt động giao dịch tín chỉ carbon và kết quả giảm nhẹ từ Việt Nam ra thị trường quốc tế”.
Phát biểu tại hội thảo, Phó Cục trưởng Cục Biến đổi khí hậu Nguyễn Tuấn Quang cho biết, để hiện thực hóa mục tiêu ứng phó biến đổi khí hậu toàn cầu, các công cụ định giá carbon, đặc biệt là hợp tác trao đổi kết quả giảm nhẹ phát thải khí nhà kính, tín chỉ carbon theo quy định Điều 6 Thỏa thuận Paris đang được xem là giải pháp quan trọng và hiệu quả, được nhiều quốc gia lựa chọn áp dụng.
Nhận thức rõ vai trò và trách nhiệm của mình trong nỗ lực chung toàn cầu, đồng thời xác định ứng phó với biến đổi khí hậu là nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, Việt Nam đã đưa ra cam kết mạnh mẽ đạt mức phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050 tại Hội nghị COP26. Song song với việc xây dựng và phát triển thị trường các-bon trong nước, việc hợp tác với các đối tác quốc tế về trao đổi kết quả giảm phát thải khí nhà kính và tín chỉ carbon đang được quan tâm. Các công cụ này giúp thúc đẩy đổi mới công nghệ carbon thấp, góp phần thực hiện mục tiêu giảm phát thải quốc gia với chi phí hợp lý, nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và nền kinh tế, hướng tới tăng trưởng xanh và phát triển bền vững.
Để hiện thực hóa cam kết và xây dựng thị trường carbon, Việt Nam đã khẩn trương xây dựng và ban hành khung pháp lý quan trọng. Luật Bảo vệ Môi trường năm 2020 lần đầu tiên quy định về "Tổ chức và phát triển thị trường các-bon" tại Điều 139. Tiếp đó, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 06/2022/NĐ-CP, ngày 7/1/2022 Quy định giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và bảo vệ tầng ô-dôn được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 119/2025/NĐ-CP, ngày 9/6/2025 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 06/2022/NĐ-CP trong đó đặt ra lộ trình cụ thể phát triển thị trường các-bon với giai đoạn thí điểm từ nay đến hết năm 2028 và vận hành chính thức từ năm 2029, hướng tới mục tiêu thí điểm sàn giao dịch các-bon ngay trong năm 2025. Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án "Thành lập và phát triển thị trường carbon tại Việt Nam" đã cụ thể hóa các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm để đưa thị trường carbon vào vận hành theo đúng lộ trình đã đề ra.

Quang cảnh hội thảo
Đối với hợp tác quốc tế, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đang chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan xây dựng dự thảo Nghị định của Chính phủ quy định trao đổi quốc tế kết quả giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và tín chỉ carbon và dự kiến trình Chính phủ ban hành trong năm 2025.
Theo ông Nguyễn Tuấn Quang, thời gian qua, Văn phòng Dịch vụ Dự án Liên hợp quốc (UNOPS), thông qua Chương trình Chuyển dịch năng lượng Đông Nam Á (ETP), đã hỗ trợ kỹ thuật cho Cục Biến đổi khí hậu trong việc đánh giá tác động của hệ thống trao đổi hạn ngạch phát thải và tín chỉ carbon tại Việt Nam. Đây là thông tin đầu vào quan trọng, giúp Bộ Nông nghiệp và Môi trường hoàn thiện Nghị định về trao đổi quốc tế kết quả giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và tín chỉ carbon.
Mục tiêu của hỗ trợ kỹ thuật này là phân tích, xây dựng mô hình và đánh giá tác động của các phương án quản lý kết quả giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và tín chỉ carbon. Điều này nhằm cung cấp thông tin đầu vào để hỗ trợ Cục Biến đổi khí hậu trong quá trình xây dựng, hoàn thiện khung pháp lý về trao đổi quốc tế kết quả giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và tín chỉ carbon.
Trưởng nhóm Dự án, chuyên gia về chính sách khí hậu, Công ty TNHH Kiến tạo Khí hậu xanh (GreenCIC) Nguyễn Hồng Loan cho rằng, nghiên cứu đã xây dựng và đánh giá 9 kịch bản dựa trên hai yếu tố chính – danh mục các hoạt động đủ điều kiện để được chấp thuận chuyển giao quốc tế và tỷ lệ kết quả giảm nhẹ giữ lại để đảm bảo mục tiêu Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC) quốc gia.
Đối với nguồn cung, nghiên cứu xem xét hai phương án: Kịch bản S20 chỉ cho phép giao dịch tín chỉ từ 20 biện pháp giảm nhẹ đóng góp hoàn toàn cho mục tiêu NDC có điều kiện và kịch bản S56 mở rộng cho 56 biện pháp đóng góp cho cả mục tiêu NDC có điều kiện và không điều kiện.
Tương ứng với đó, hạn mức giao dịch được thiết lập là 90% đối với kịch bản S20, và hai mức 70% hoặc 50% đối với kịch bản S56, nhằm quản lý rủi ro tránh bán quá mức và vẫn đảm bảo mục tiêu NDC quốc gia. Giá bán được xác định là một trong những yếu tố then chốt ảnh hưởng đến kết quả đánh giá tác động của các kịch bản. Các mức giá được phân thành ba khoảng: cao, trung bình, và thấp cho từng nhóm người mua. Bên cạnh đó, các yếu tố quan trọng khác như thứ tự ưu tiên đối tác mua, cơ chế thuế và phí giao dịch cũng được lồng ghép vào từng kịch bản.
Về nguyên tắc, hoạt động trao đổi quốc tế kết quả giảm phát thải phải ưu tiên phục vụ mục tiêu quốc gia trong thực hiện Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC) và mục tiêu phát thải ròng bằng 0, tuân thủ pháp luật của Việt Nam và Thỏa thuận Paris. Các dự án phải đảm bảo chất lượng tín chỉ. Kết quả phải được đăng ký trên hệ thống đăng ký quốc gia, doanh thu từ trao đổi được quản lý theo pháp luật tài chính.
Đề cập đến việc đánh giá kết quả, chuyên gia về đánh giá tác động, ông Hồ Công Hòa, Học viện Chính sách và Phát triển nêu rõ, lợi ích kinh tế, xã hội đạt tối ưu trong kịch bản mở rộng danh mục biện pháp S56 đủ điều kiện để được chấp thuận chuyển giao quốc tế. Trong kịch bản này, lợi ích kinh tế từ giao dịch tín chỉ carbon có thể đóng góp trung bình 0,43%/năm cho GDP của đất nước giai đoạn 2025-2030, đồng thời, thúc đẩy tăng trưởng đầu tư, tiêu dùng và việc làm.
Việc đặt hạn mức giao dịch rất cần thiết để đảm bảo yêu cầu điều chỉnh tương ứng theo Thỏa thuận Paris và đóng góp vào mục tiêu NDC của Việt Nam. Nếu giữ lại 50% tín chỉ, Việt Nam có thể đảm bảo tới 62% mục tiêu NDC không điều kiện; trong khi nếu giữ lại 30%, tỷ lệ đóng góp là 37,3%.
Các chuyên gia khuyến nghị, Việt Nam nên tiếp cận theo từng bước, khởi đầu với mức trần giao dịch thận trọng 50%. Khi năng lực giảm phát thải khí nhà kính trong nước được củng cố và mức độ tin cậy vào khả năng hoàn thành mục tiêu không điều kiện gia tăng, mức trần có thể nâng lên 70%, qua đó hiện thực hóa toàn bộ mục tiêu NDC có điều kiện với sự hỗ trợ quốc tế.
Việt Nam nên áp dụng một mức phí giao dịch hợp lý (khoảng 2%) nhằm tăng nguồn thu ngân sách từ thị trường carbon. Nguồn thu này cần được tái đầu tư vào các lĩnh vực khó giảm phát thải như nông nghiệp và lâm nghiệp để đảm bảo công bằng và nâng cao hiệu quả giảm phát thải tổng thể. Đồng thời, cần cân nhắc các chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào các biện pháp tạo tín chỉ trong các lĩnh vực ưu tiên để vừa đóng góp tối đa vào các mục tiêu NDC, vừa giảm nhẹ các rủi ro về biến động giá trên thị trường, qua đó nâng cao tính cạnh tranh của tín chỉ carbon Việt Nam trên thị trường quốc tế.