Học giả Nguyễn Văn Huyên và góc nhìn mới về địa lý hành chính, tập quán của người Việt
Bằng các số liệu vẫn còn tồn tại cũng như phân tích hợp lý, học giả Nguyễn Văn Huyên đã mang đến cái nhìn mới mẻ và đầy bất ngờ về các nỗ lực 'quy hoạch' của chính quyền thuộc địa, những như rất nhiều hạn chế vẫn còn ở đó trong tâm thức sau 'lũy tre làng'.
Nổi tiếng với các công trình nghiên cứu về văn hóa Việt Nam như Hội hè lễ Tết của người Việt, Sinh hoạt của người Việt: Cư trú – Kiến trúc – Hát đối… Thế nhưng có một tác phẩm đánh dấu sự chuyển biến trong hướng nghiên cứu của học giả Nguyễn Văn Huyên mà ít người biết đến, đó là Địa lý hành chính và tập quán của người Việt.
Ra mắt vào thập niên 1940, do nhiều gián đoạn bởi chiến tranh, nên tác phẩm này chỉ còn lại bản in thử, và gần đây mới xuất hiện lại với 2 di cảo chưa từng công bố.
Nghiên cứu về tỉnh và tổng
Trong tác phẩm này, ông đã chọn hai trong số nhiều kiểu tổ chức hành chính của Việt Nam truyền thống là tỉnh và tổng để tái hiện quá trình phân cấp quản lý địa phương, đồng thời mang đến bức tranh tương đối đặc thù của dân cư thời đó.
Với tỉnh, ông chọn Bắc Ninh và khai thác theo truyền thống địa dư, địa chí. Bắt nguồn từ thời điểm vua Gia Long khi chia nước thành 24 trấn, 4 doanh và 2 thành, bấy giờ thì xứ Kinh Bắc vẫn còn được gọi là trấn Kinh Bắc. Sau đó dưới thời Minh Mạng, nó trở thành Bắc Ninh trấn và sau đó là tỉnh Bắc Ninh. Đi kèm những thay đổi này là các chi tiết về các đơn vị nhỏ hơn, như phủ, huyện, tổng, xã…
Với tổng, ông chọn tổng Dương Liễu thuộc huyện Đan Phượng (tỉnh Hà Đông xưa), gồm 5 làng: Dương Liễu, Quế Dương, Mậu Hòa, Cát Ngòi và Yên Sở. Chính trong phần này mà mối quan hệ giữa quyền lực địa phương và pháp luật nhà nước, cũng như những cải cách mới khi Pháp thiết lập chế độ thuộc địa, can thiệp vào bộ máy nhà nước... đã được thể hiện.
Phần này gồm những bài viết cũng như di cảo có nhiều giá trị, có thể thoáng qua như việc giải nghĩa bài đồng dao Chi chi chành chành đặt trong bối cảnh chính trị, hoặc cách đặt tên trong hoàng tộc Việt Nam… nhưng cũng có nhiều bài viết vô cùng sắc sảo, cho thấy một góc nhìn khác về địa lý hành chính của người Việt xưa.
Theo học giả Nguyễn Văn Huyên, các làng trong một tổng thường có một sự kết nối với nhau qua việc thờ chung vị thần nào đó, từ đó họ được gắn kết bởi quyền lợi chung. Chẳng hạn như thờ cúng Thành hoàng ở đình, thờ Phật ở chùa, quản lý công sản của làng… Trong tác phẩm này, tác giả đã khảo sát 3 làng gồm Dương Liễu, Quế Dương và Mậu Hòa cùng thờ tướng Lý Phục Man – người có công lớn trong việc thu phục các bộ tộc thiểu số ở thế kỷ 6. Thiết chế mang tính nghi lễ và tín ngưỡng này đã cố kết người dân 3 làng với nhau, cả về quyền lợi lẫn trách nhiệm, bổn phận, tuy vậy mỗi nơi vẫn sẽ gìn giữ tập quán khác nhau.
Thế nhưng sở hữu đặc điểm khác nhau, quan niệm khác nhau… cho nên quá trình “chung sống” nói trên luôn không dễ dàng. Bằng các ghi chép để lại, học giả Nguyễn Văn Huyên đã cho ta thấy rất nhiều lát cắt về những xung đột đời thường, chẳng hạn trong việc xây dựng đình thờ, vị trí xem hát để chọn ca nữ hát dâng lễ tế thần vào mỗi tháng Ba âm lịch hàng năm, hay cả quá trình tranh giành những vùng đất bồi được mở mang nhờ phù sa sông…
Ông cũng cung cấp rất nhiều chuyện kể hài hước, chẳng hạn có lần hương hào của làng Mậu Hòa đã để vạt sau chiếc áo dài của mình chờm lên chiếc chiếu của làng Dương Liễu, và cũng rất nhanh, hương hào của Dương Liễu với con dao sắc trong tay, đã cắt ngay vạt áo đó theo rãnh giữa hai tấm ván sàn.
Mọi thứ diễn ra như các câu chuyện mang tính ngụ ngôn, từ đó dẫn đến những phiên phân xử. Khi xảy ra bất đồng giữa các cá nhân thì các hương hào hay người đại diện nhà nước luôn tìm cách dàn xếp êm đẹp, trong khi nếu như vụ việc dẫn đến kiện cáo, thì các quan tòa anh minh đều tìm cách gợi lại những tình cảm tốt đẹp trước đó của cư dân. Ví dụ trong phiên xét xử nọ, các cấp cao hơn đã phân xử rằng: “Nếu muốn đối xử với người khác bằng lòng bao dung, ta đừng đắn đo việc làm đó là hợp hay trái lý; nếu muốn gắn bó mọi người lại với nhau bằng lòng tốt, ta đừng bàn cãi nguyên tắc đúng, sai. Ta giống như tảng băng tan ra thành hai nửa và hợp trở lại”. Tuy vậy sau nhiều nỗ lực thì các tranh chấp vẫn sẽ diễn ra một cách thường xuyên.
Những việc nói trên cũng khiến cho vị học giả dẫn đến kết luận có phần hài hước, đó là phải rất kiên nhẫn mới có thể sống ở vùng nông thôn Bắc bộ. Ông cũng khẳng định thêm nhận định này bằng chứng cứ là phải sau 2 đợt ném bom thực sự chết chóc thì người Hà Nội mới quyết tâm rời thành phố để trở về làng. Và cũng vì thế mà cũng dễ hiểu dẫu cho chính quyền nhà nước thuộc địa đã cố gắng vươn quyền lực quản lý xuống đến các địa bàn làng xã nhưng những nơi này vẫn sẽ tạo những khoảng trống cho quyền lực địa phương tồn tại nghìn đời, như câu thành ngữ “phép vua còn thua lệ làng”.
Xã hội của nam giới
Điều này thể hiện ở một khía cạnh tương đối quen thuộc, đó là người nữ thường không có vai trò gì chính thức trong làng. Họ không có quyền tham gia vào công việc làng, cũng như không nhận được gì từ hoa lợi cộng đồng. Thế nhưng ngược lại, cộng đồng có thể nhận được đóng góp của họ bằng tiền hoặc là công sức cho các công trình mang tính chất chung. Một điều cũng tương đối mới mà học giả Nguyễn Văn Huyên cung cấp là sự xuất hiện của giáp.
Theo đó đây là tổ chức gồm ít hoặc nhiều những người đàn ông ở trong một xã tập hợp với nhau, họ có thể là hàng xóm, họ hàng, hoặc thậm chí tụ họp cùng nhau chỉ vì cảm tình hoặc sở thích cá nhân. Theo tác giả, giáp đã có mặt ngay từ rất sớm, chẳng hạn ở đình Dương Liễu mà ông khảo sát thì các tấm bia có niên đại từ năm 1704 đã có ghi chép về tổ chức này. Tuy vậy nó luôn biến thiên và thay đổi liên tục. Những người cao tuổi trong làng cho biết các giáp dễ bề tan rã sau các bất đồng cũng như cãi vả. Một số giáp khác thì mất hoặc là tứ tán do các trận lũ và dân di cư từ trong lịch sử.
Đây có thể coi là điển hình của một xã hội nam giới, nơi chỉ những người có đặc trưng giới tính mới được tham gia. Một điều đặc biệt, như Nguyễn Văn Huyên chia sẻ, là ngôi thứ của các thành viên chỉ được xác định theo thời gian vào giáp, mà không tính đến địa vị xã hội hoặc đặc quyền khác. Dẫn đến ngay từ rất nhỏ, những em bé trai khi vừa ra đời đã được đăng ký vào giáp. Và cũng do đó mà số lượng vượt trội của trẻ em trai là dễ lý giải, bởi không có lợi ích gì khi đăng ký hộ tịch cho con gái, và việc đăng ký nói trên cũng không bắt buộc ở thời bấy giờ.
Điều này dẫn đến kết luận rằng việc khai sinh cho trẻ em gái ở các phân cấp hành chính nhỏ hơn dễ bị lơ là. Qua các nghiên cứu của mình, học giả Nguyễn Văn Huyên nhận thấy ở vùng thôn quê, người ta cảm thấy có sự tự hào nhất định khi làng mình sinh nhiều con trai hơn làng bên cạnh. Và vì không được khai sinh nên việc khai tử cũng có kết quả tương tự. Những sinh linh được khai tử duy nhất chính là con của gia đình khá giả hoặc ở gần nhà của người phụ trách hộ tịch.
Ở đây lại một lần nữa “phép vua thua lệ làng”, khi với dân thường, họ thấy hộ tịch không mấy cần thiết cũng như không phải nhu cầu bức thiết hàng ngày. Dẫn đến số liệu ghi lại còn nhiều điểm nhiễu hoặc không hợp lý. Chúng chủ yếu thuộc về người lớn, nhất là nam giới vào giáp hoặc những thành viên của gia đình tương đối khá giả. Bởi một nghịch lý là việc đăng ký hộ tịch hay khai tử cần phải tìm thấy hai người làm chứng, và với tâm thức sợ sệt những điều mang tính “hình thức”, “bút sa gà chết”, “giấy trắng mực đen”… vốn ăn sâu vào trong tâm khảm, khiến cho việc thực hiện chúng không hề dễ dàng. Một điểm khác nữa là sự ra đi của một con người cũng kéo theo nhiều nghi thức, nghi lễ, dẫn đến tỷ lệ tử hay số lượng người chết không được chính xác.
Có thể thấy rằng việc sống quần tụ cũng như có làng quê gốc luôn là vinh dự đối với người Việt, nhưng những tồn tại của ý thức hệ và cách làm việc theo thói quen đã khiến cho việc ghi chép địa lý hành chính gặp nhiều khó khăn. Bằng các số liệu vẫn còn tồn tại cũng như phân tích hợp lý, học giả Nguyễn Văn Huyên đã mang đến cái nhìn mới mẻ và đầy bất ngờ về các nỗ lực “quy hoạch” của chính quyền thuộc địa, những như rất nhiều hạn chế vẫn còn ở đó trong tâm thức sau “lũy tre làng”. Địa lý hành chính và tập quán của người Việt là một tác phẩm hữu ích, đặc biệt là trong bối cảnh đất nước đang tiến hành cải cách hành chính, và thực hiện công cuộc chấn hưng văn hóa như là hiện nay.