Hội đồng trường Đại học: Vẫn hữu danh vô thực
Một trong những vấn đề liên quan đến tự chủ đại học đó là cuộc chuyển giao quyền lực từ cơ quan sở hữu sang Hội đồng trường (đối với các trường ĐH công lập). Nhưng thực tế cho thấy Hội đồng trường hiện nay vẫn chỉ là hữu danh vô thực.
Theo GS. TS Trần Đức Viên, Chủ tịch Hội đồng Học Viện Nông nghiệp Việt Nam cho biết theo yêu cầu của Nghị định hướng dẫn thực hiện Luật giáo Giáo dục ĐH sửa đổi 2018 (hay còn gọi là Luật số 34), chậm nhất là sau 6 tháng (nghĩa là hạn chót là ngày 15/8/2020), tất cả cơ sở giáo dục ĐH công lập, trừ khối trường công an, quân đội, phải có hội đồng trường được thành lập theo quy định của Luật.
Nhưng đến ngày 30/10 vừa qua, theo báo cáo của cơ quan chức năng mới có 31/35 cơ sở giáo dục trực thuộc Bộ GD&ĐT (4 đơn vị đang tiến hành quy trình), 54 cơ sở giáo dục ĐH trực thuộc các Bộ, ngành khác thành lập Hội đồng trường theo Luật mới, trên tổng số 175 trường ĐH công lập (chiếm 46,3%). Bộ GD&ĐT đang tiếp tục đốc thúc các cơ quan quản lý trực tiếp của các trường ĐH để đến hết năm nay về cơ bản các trường ĐH công lập đều có Hội đồng trường.
“Nếu thiếu vắng sức ép về mặt hành chính, thì không ít trường gần như vẫn tìm cách để đứng ngoài cuộc; với các trường đã thành lập Hội đồng trường, thì dường như thiết chế này hoặc là vẫn đang hoạt động như một bộ máy quản lý mở rộng của Hiệu trưởng hoặc là một tổ chức tư vấn cho hiệu trưởng”, GS. Trần Đức Viên khẳng định.
Hay nói như TS. Mai Văn Tỉnh, nguyên chuyên viên cao cấp của Bộ GD&ĐT, mặc dù đã quy định trong luật nhưng thực tế vai trò, nhiệm vụ của hội đồng trường trong các cơ sở giáo dục ĐH tự chủ vẫn chưa rõ ràng. Nhiều người ví von hội đồng trường giống như "hồn Trương Ba, da hàng thịt" và cho rằng một trong những nguyên do dẫn tới lúng túng của các trường là do việc xây dựng luật chưa thực sự đứng trên góc độ của các trường. Và nếu việc thực thi không mang tính thực chất, minh bạch, không ai đảm bảo hội đồng trường làm tốt yêu cầu giải trình xã hội. Bởi nếu hội đồng trường mà đa số thành viên là người của trường vẫn sẽ chỉ đứng về lợi ích của trường, không phải vì người học.
Ở góc nhìn của cơ quan giám sát của Quốc hội, ông Nguyễn Tất Thắng, Phó chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội, đưa ra nhận định của ủy ban khi giám sát thực tiễn triển khai tự chủ ĐH: thiết chế hội đồng trường của nhiều cơ sở giáo dục ĐH vẫn còn mang nặng tính hình thức, không hiệu quả vì chưa có sự phân chia mạch lạc, rõ ràng vai trò, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của hội đồng trường trong quan hệ với bên ngoài và nội bộ trường, trong quan hệ với hiệu trưởng, với các tổ chức đoàn thể, chính trị khác.
Vẫn chưa muốn bỏ cơ quan chủ quản?
Phân tích mối quan hệ giữa cơ sở giáo dục ĐH với cơ quan chủ quản, GS. TS Trần Đức Viên cho hay trong quá trình vận hành tự chủ ĐH, người ta thấy phản ứng của các trường ĐH với cơ quan chủ quản có thể chia làm hai nhóm: Hoặc là chưa muốn từ bỏ cơ quan chủ quản, chưa muốn thoát ra khỏi cơ chế cũ, phát triển tuy có chậm đấy, nhưng lành và an toàn; hoặc là đón nhận cơ chế tự chủ ĐH như đón một luồng sinh khí mới, đòi hỏi cơ quan chủ quản trả lại các quyền tự chủ đã được luật định để có thể phát huy cao nhất các lợi thế do tự chủ ĐH mang lại.
Một số ít trường thuộc loại này thường có khúc mắc và đôi khi là xung đột về tự chủ ĐH với cơ quan chủ quản. GS. Viên nêu thực tế tình trạng số đông vẫn muốn duy trì lề thói tuân thủ quản lý từ trên xuống và hiện tượng một vài xung đột giữa cơ quan chủ quản với trường trực thuộc thời gian qua đã gióng lên hồi chuông báo động về việc “cái áo” của cơ chế chủ quản cũ đã chật hẹp, cần phải giải quyết mối quan hệ này một cách căn cơ, bài bản, khoa học.
“Có như thế mới giúp hai bên “tâm phục khẩu phục” để từng bước xóa bỏ cơ chế chủ quản theo tinh thần của Chính phủ, để các trường “gọi dạ bảo vâng” buộc phải trưởng thành; còn các trường muốn bứt phá thì có khung pháp lý đủ rộng cho họ tự tin bước trên con đường tự chủ vì đã được pháp luật bảo vệ. Tại sao có sự chậm chạp đến như vậy? Rõ ràng là còn có những điều gì đó chưa thực sự tạo ra động lực và nguồn lực cho tự chủ ĐH, có thể là do môi trường cho tiến trình nàycủa chúng ta còn đang ở tình trạng ‘trong chưa ấm, ngoài chưa êm”, GS. Trần Đức Viên thông tin.
Theo ông, trong quá trình đổi mới giáo dục ĐH, cơ chế quản lý theo tư duy “bao cấp, kế hoạch hóa” đã được cải tiến dần, nhà nước ngày càng giao thêm quyền tự chủ về nhiều mặt cho trường ĐH. Nhưng việc dịch chuyển từ hệ thống ĐH dựa vào nhà nước sang hướng vào thị trường, cũng như từ bỏ một thói quen cũ, một tư duy cũ là mối quan hệ giữa 3 thiết chế lãnh đạo-quản trị-quản lý trường ĐH (Đảng ủy-Hội đồng trường-Ban giám hiệu) không phải là câu chuyện ngày một ngày hai, nhất là khi những điều đó đã thấm vào con người, trở thành một thứ văn hóa trong quản lý, điều hành.
Thêm nữa, cho đến nay, hai lĩnh vực quyết định quan trọng nhất trong hoạt động, là tài chính và nhân sự chủ chốt của trường ĐH trực thuộc, phần lớn vẫn nằm trong tay bộ chủ quản. Cụ thể là kinh phí hàng năm cho các trường ĐH do bộ chủ quản phân phối theo cơ chế cấp phát còn đậm chất xin-cho, các nhân sự quan trọng nhất của trường ĐH, trong đó có hiệu trưởng, hiệu phó do bộ chủ quản quy hoạch, ‘phê chuẩn kết quả bầu, phê chuẩn kết quả miễn nhiệm…
Bộ chủ quản vẫn có cơ chế kiểm soát trường trực thuộc về nhiều mặt và trường trực thuộc phải có trách nhiệm báo cáo việc thực hiện các hoạt động với bộ chủ quản. Trường ĐH, trên thực tế, không có quyền tự quyết định thực sự đối với nhiều vấn đề của cơ sở mình theo luật định. “Như một quán tính có từ thời bao cấp, nếu cơ quan chủ quản vẫn ‘vô tư’ can thiệp vào việc tác nghiệp thường ngày của nhà trường, điều đó sẽ hạn chế sự sáng tạo của cơ sở giáo dục, tạo ra sự ỷ lại vào cấp trên, sinh ra sự trì trệ của cả hệ thống”, GS Viên nói.