Hồi sinh di sản trong nhịp sống mới
Từ những câu hò mộc mạc vang lên giữa đồng quê đến những điệu múa say đắm giữa đại ngàn, dân ca, dân vũ xứ Thanh không chỉ là một phần ký ức văn hóa mà còn là sợi chỉ đỏ kết nối quá khứ với hiện tại. Trong dòng chảy hối hả của thời đại, những giá trị truyền thống tưởng chừng bị quên lãng đang được đánh thức bằng chính khát vọng gìn giữ và lan tỏa của cộng đồng.

Nghệ nhân biểu diễn trò Xuân Phả tại đền thờ vua Lê, huyện Thọ Xuân
Bản sắc văn hóa bền bỉ với thời gian
Trên mảnh đất Thanh Hóa, nơi hội tụ của nhiều tộc người và bản sắc văn hóa lâu đời, dân ca, dân vũ đã ăn sâu vào đời sống, trở thành “món ăn tinh thần” đặc sắc trong các nghi lễ và sinh hoạt thường nhật. Trải qua thăng trầm, những lời ca, điệu múa ấy không chỉ phản ánh tâm tư, tình cảm của con người mà còn là tấm gương phản chiếu lịch sử của một vùng đất.
“Dân ca, dân vũ là linh hồn của làng quê, là hơi thở của cuộc sống dân dã. Mỗi câu hát, mỗi điệu múa đều chứa đựng niềm tin, hy vọng và bản sắc dân tộc”, NNƯT Lê Công Trưởng (xã Đông Khê, TP Thanh Hóa) chia sẻ với giọng đầy xúc động khi nói về Ngũ trò Viên Khê, một loại hình diễn xướng dân gian từng đứng trước nguy cơ mai một.
Xuất phát từ đời sống lao động và tín ngưỡng của người nông dân, Ngũ trò Viên Khê ban đầu chỉ có 5 trò diễn, nhưng theo thời gian đã phát triển thành 12 trò, với những tên gọi mang đậm màu sắc dân gian như: Múa đèn, Tiên Cuội, Tô Vũ, Trống Mõ...
Trải qua thời gian, không ít trò diễn đã bị thất truyền, nhưng nhờ nỗ lực của chính quyền địa phương, các nhà nghiên cứu và cộng đồng nghệ nhân, năm 2017, Ngũ trò Viên Khê đã được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia, dấu mốc quan trọng đánh dấu sự hồi sinh mạnh mẽ của di sản này.
Tại huyện Thọ Xuân, trò Xuân Phả, một loại hình nghệ thuật trình diễn dân gian với các điệu múa uyển chuyển mang đậm dấu ấn lịch sử và tinh thần dân tộc vẫn được duy trì đều đặn trong các dịp lễ hội. Hình ảnh đoàn người trong trang phục truyền thống, múa hát với nhạc cụ dân tộc biểu diễn dưới chân đền thờ vua Lê khiến bất kỳ ai chứng kiến cũng cảm nhận được hồn cốt xứ Thanh đang sống lại từng khoảnh khắc.
Không chỉ ở vùng đồng bằng, tại các huyện miền núi như Ngọc Lặc, Quan Hóa, Mường Lát, dân ca, dân vũ của đồng bào dân tộc thiểu số vẫn âm thầm lan tỏa trong đời sống cộng đồng.
Các loại hình như múa rùa, múa bát, hát ru, hát xường giao duyên, hát khặp dân tộc Thái; lễ hội Pồn Pôông của người Mường; nghi thức Sắc bùa (Phường chúc), lễ nhảng chập đáo (Tết nhảy) của người Dao quần chẹt… đều là những biểu tượng sinh động của kho tàng văn hóa dân gian phong phú, cần mẫn được gìn giữ qua nhiều thế hệ.
Ở Ngọc Lặc, những ngày đầu xuân, các đội văn nghệ quần chúng nô nức tập luyện, biểu diễn trong tiếng chiêng, tiếng khèn rộn ràng. Đó không chỉ là dịp vui chơi, mà còn là một cách “sống cùng di sản”, gắn bó máu thịt với bản sắc tộc người. Chính quyền địa phương đã chủ động kiểm kê, số hóa các làn điệu dân ca, đồng thời khuyến khích nghệ nhân truyền dạy lại cho thế hệ trẻ - những người “giữ lửa” cho ngày mai.

Lớp tập huấn sưu tầm, bảo tồn dân ca dân tộc Mông tại Mường Lát thu hút sự tham gia của nhiều nghệ nhân trẻ
Hành trình hồi sinh và lan tỏa di sản
Trước nguy cơ mai một từ tốc độ đô thị hóa và sự lấn át của văn hóa nghe nhìn hiện đại, nhiều địa phương ở Thanh Hóa đã chủ động triển khai các biện pháp bảo tồn và phát huy giá trị di sản. Sự vào cuộc đồng bộ của các cơ quan quản lý, giới nghệ nhân và cộng đồng làng xã đã tạo nên một “hệ sinh thái văn hóa” đang ngày càng bền vững.
Theo bà Nguyễn Thị Mai Hương, Giám đốc Trung tâm Xúc tiến Du lịch và Văn hóa, Điện ảnh Thanh Hóa, việc đào tạo và truyền dạy dân ca, dân vũ hiện là một trong những hoạt động trọng tâm của đơn vị.
“Từ đầu năm 2025 đến nay, chúng tôi đã phối hợp với các huyện miền núi tổ chức nhiều lớp tập huấn như: Sưu tầm, bảo tồn các làn điệu dân ca, dân vũ, nhạc cụ dân tộc Mông tại Mường Lát; Bảo tồn và phát huy giá trị hát ru, múa chuông của người Dao ở Cẩm Thủy... Những lớp học này không chỉ dành cho nghệ nhân mà còn thu hút đông đảo thanh thiếu niên tham gia, thể hiện sự tiếp nối đầy triển vọng của di sản văn hóa phi vật thể”, bà Hương cho biết.
Bên cạnh việc truyền dạy, các địa phương còn tổ chức các liên hoan dân ca, dân vũ cấp huyện, tỉnh, khuyến khích giao lưu, sáng tạo giữa các đội văn nghệ quần chúng. Đây vừa là sân chơi, vừa là cơ hội để đánh thức niềm tự hào văn hóa trong cộng đồng.
Một hướng đi hiệu quả khác là đưa dân ca, dân vũ vào học đường, gắn với phát triển du lịch văn hóa. Tại nhiều trường học, đặc biệt ở các vùng dân tộc thiểu số, giáo viên âm nhạc đã chủ động lồng ghép các làn điệu truyền thống vào hoạt động ngoại khóa, biểu diễn văn nghệ… Nhờ đó, học sinh không chỉ có kỹ năng biểu diễn thuần thục mà còn hiểu và yêu di sản quê hương mình.
Đặc biệt, ngày 12.4.2021, UBND tỉnh Thanh Hóa đã phê duyệt Đề án “Bảo tồn, phục dựng và phát huy giá trị dân ca, dân vũ tỉnh Thanh Hóa trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, giai đoạn 2021-2030”. Đây là chiến lược bài bản, toàn diện, hướng tới mục tiêu lâu dài: Biến dân ca, dân vũ thành sản phẩm văn hóa truyền thống và tài sản du lịch, đồng thời là công cụ quảng bá hình ảnh địa phương ra khu vực và thế giới.
Hành trình gìn giữ dân ca, dân vũ xứ Thanh không chỉ là việc bảo tồn một loại hình nghệ thuật, mà sâu xa hơn là gìn giữ ký ức cộng đồng, bản sắc dân tộc và niềm tự hào văn hóa của một vùng đất. Trong dòng chảy đổi thay không ngừng của thời đại, sự hồi sinh và lan tỏa mạnh mẽ của những giá trị dân gian ấy là minh chứng sinh động cho sức sống mãnh liệt của di sản văn hóa Việt Nam.
Dân ca, dân vũ xứ Thanh, từ cội nguồn đang vươn mình tỏa sáng, như một lời nhắn nhủ bền bỉ về những giá trị không thể thay thế: Cội rễ văn hóa, tình người và khát vọng gìn giữ bản sắc dân tộc.
Nguồn Văn hóa: http://baovanhoa.vn/dan-toc-ton-giao/hoi-sinh-di-san-trong-nhip-song-moi-138912.html