Hơn 40% hộ dân nông thôn chưa được sử dụng nước đạt chuẩn quốc gia

Sau hàng chục năm triển khai chương trình cấp nước nông thôn, vẫn còn hơn 40% hộ dân khu vực nông thôn chưa được sử dụng nước đạt quy chuẩn quốc gia.

Công ty khai thác công trình thủy lợi Miền Nam được Bộ Nông nghiệp và môi trường giao quản lý 5 công trình thủy lợi quy mô lớn tại khu vực đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL). Ở vùng đất được mẹ thiên nhiên ban tặng mạng lưới sông ngòi chằng chịt như thế, người dân lại "khát" nước ngọt do thường xuyên chịu ảnh hưởng nặng nề của hạn hán và xâm nhập mặn.

Ông Nguyễn Việt Anh, Chủ tịch Hội đồng thành viên công ty cho hay, các năm 2015-2016, 2019-2020 và 2023-2024 được xem là những giai đoạn điển hình, ghi nhận mức độ hạn mặn nghiêm trọng nhất trong nhiều thập kỷ. Trong bối cảnh đó, hệ thống công trình thủy lợi đóng vai trò then chốt trong việc điều tiết, kiểm soát nguồn nước, ngăn mặn, giữ ngọt, phục vụ sản xuất nông nghiệp và phát triển kinh tế - xã hội.

Tuy nhiên, thực tế cho thấy, nếu không tiếp tục đầu tư, nâng cấp đồng bộ hệ thống công trình thủy lợi, từ quy mô lớn đến nhỏ, thì rất khó kiểm soát hiệu quả tình trạng hạn hán và xâm nhập mặn trong tương lai ở khu vực này.

Ông Nguyễn Việt Anh, Chủ tịch Hội đồng thành viên Công ty khai thác công trình thủy lợi Miền Nam. Ảnh: Nguyễn Thủy

Ông Nguyễn Việt Anh, Chủ tịch Hội đồng thành viên Công ty khai thác công trình thủy lợi Miền Nam. Ảnh: Nguyễn Thủy

Theo số liệu từ Bộ Nông nghiệp và môi trường, lượng nước về đồng bằng sông Cửu Long trong mùa khô những năm gần đây giảm từ 10 - 15% so với trung bình nhiều năm; trong khi nhu cầu sử dụng nước tăng nhanh cho nông nghiệp, công nghiệp và sinh hoạt.

Đặc biệt, dòng chảy từ thượng nguồn sông Mê-kông ngày càng biến động khó lường, do hệ thống hơn 160 đập thủy điện ở các quốc gia thượng lưu làm giảm khả năng điều tiết tự nhiên và khiến xâm nhập mặn gia tăng sớm, tiến sâu vào nội đồng.

Người dân khu vực ĐBSCL đi nhận nước ngọt từ các tổ chức, doanh nghiệp cứu trợ. Ảnh: Quốc Hải

Người dân khu vực ĐBSCL đi nhận nước ngọt từ các tổ chức, doanh nghiệp cứu trợ. Ảnh: Quốc Hải

"Giữ nước là giữ sự sống của ĐBSCL. Do đó, việc quản lý và khai thác nước tại đây đã vượt ra khỏi phạm vi kỹ thuật thông thường, trở thành vấn đề an ninh môi trường và phát triển con người mang tính chiến lược", ông Việt Anh chia sẻ tại Diễn đàn “Vai trò của nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn trong phát triển nông nghiệp bền vững, xây dựng nông thôn văn minh”, do Bộ Nông nghiệp và môi trường phối hợp với Báo Nông nghiệp và môi trường cùng Cục Quản lý và xây dựng công trình thủy lợi, tổ chức.

"Khát nước" giữa vùng sông nước

Ông Phạm Văn Mạnh, Phó viện trưởng Viện Quy hoạch thủy lợi miền Nam cho biết, công tác cấp nước sạch nông thôn còn nhiều bất cập, đặc biệt trong khâu quy hoạch, quản lý khai thác và giám sát chất lượng nguồn nước. Nhiều địa phương quy hoạch chưa đồng bộ, hệ thống cấp nước không theo kịp quá trình đô thị hóa, trong khi giám sát nguồn nước và chất lượng còn hạn chế.

Hệ quả là việc cấp phép, khai thác và điều hành gặp nhiều khó khăn, nhất là trong bối cảnh hạn hán và xâm nhập mặn gia tăng.

Thực tế cho thấy, nhiều khu vực nông thôn ở Cà Mau, Bến Tre, Hậu Giang vẫn phải sử dụng nước mưa hoặc nước trữ tạm thời. Một số công trình hồ chứa được đầu tư phân tán nhưng quy mô còn nhỏ, chưa đáp ứng đủ nhu cầu sinh hoạt.

Ông Trần Bá Hoằng, Viện trưởng Viện Khoa học thủy lợi miền Nam. Ảnh: Nguyễn Thủy

Ông Trần Bá Hoằng, Viện trưởng Viện Khoa học thủy lợi miền Nam. Ảnh: Nguyễn Thủy

Ông Trần Bá Hoằng, Viện trưởng Viện Khoa học thủy lợi miền Nam, cho hay, Bộ Nông nghiệp và môi trường đã triển khai thêm các dự án cấp nước sạch nông thôn tại 4 tỉnh ĐBSCL. Tuy nhiên, việc đầu tư ở những khu vực còn lại đang gặp nhiều khó khăn do thiếu nguồn nước ngọt, chi phí cao và giá thành đầu tư lớn, đặc biệt với doanh nghiệp tư nhân.

Bên cạnh đó, với đặc thù dân cư phân tán, hiện có khoảng 53.500 hộ không thể cấp nước tập trung, vì vậy cần xem xét các giải pháp như dự trữ nước tại hộ gia đình hoặc các phương án thay thế khác.

Ở quy mô cấp quốc gia, ông Lương Văn Anh, Phó cục trưởng Cục Quản lý và xây dựng công trình thủy lợi (Bộ Nông nghiệp và môi trường) cho biết dù đã có sự quan tâm đầu tư của Nhà nước và xã hội, nhưng mới khoảng 58% người dân nông thôn được sử dụng nước đạt quy chuẩn quốc gia; trong đó, chỉ 8% dùng nước từ công trình cấp nước tập trung, 50% còn lại phụ thuộc vào nguồn nước hộ hoặc nhóm hộ.

“Phần lớn người dân nông thôn chưa tiếp cận được hệ thống cấp nước tập trung. Muốn bảo đảm nguồn nước ổn định và bền vững cần thêm giải pháp tổng thể và đầu tư quy mô lớn”, ông Văn Anh nói.

Diễn đàn “Vai trò của nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn trong phát triển nông nghiệp bền vững, xây dựng nông thôn văn minh”.

Diễn đàn “Vai trò của nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn trong phát triển nông nghiệp bền vững, xây dựng nông thôn văn minh”.

Ông cũng đề nghị phải thống kê chính xác và thống nhất về công trình cấp nước để đánh giá đúng hiệu quả hoạt động của hệ thống cấp nước nông thôn.

Theo ông, cả nước hiện có khoảng 18.000 công trình cấp nước nông thôn, song trong đó có tới một phần ba (hơn 6.000 công trình) là những mô hình quy mô nhỏ, chủ yếu ở vùng núi như Gia Lai, Kon Tum (cũ), chỉ phục vụ khoảng 10 hộ, thường được hình thành bằng cách đắp suối, dẫn nước qua đường ống chung, nên thực chất chưa đáp ứng tiêu chuẩn của hệ thống cấp nước tập trung và chất lượng nước chưa được đảm bảo.

Xã hội hóa đầu tư để có nước sạch bền vững

Theo ông Lương Văn Anh, để đạt được mục tiêu về nước sạch nông thôn theo Chiến lược quốc gia đến năm 2030 (80% dân số nông thôn sẽ được sử dụng nước sạch), cần triển khai đồng bộ nhiều giải pháp về thể chế, nguồn lực và phương thức đầu tư.

Trước hết, Bộ Nông nghiệp và môi trường đã hoàn thiện dự thảo nghị định mới về quản lý nước sạch nông thôn, trong đó quy định rõ từ khâu đầu tư, quản lý vận hành đến cơ chế huy động vốn xã hội hóa. Nghị định này kỳ vọng sẽ khắc phục những bất cập hiện nay, tạo hành lang pháp lý thông suốt để thu hút doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế tham gia cung cấp dịch vụ nước sạch.

Bên cạnh đó, Nhà nước cần dành nguồn lực ưu tiên cho các vùng khó khăn, miền núi, biên giới và hải đảo - những nơi doanh nghiệp khó đầu tư do chi phí cao, hiệu quả thấp. Cùng với đó là việc huy động người dân tham gia đóng góp kinh phí, ngày công hoặc đất đai để hình thành công trình, đặc biệt ở các vùng có điều kiện thuận lợi cho xã hội hóa.

Một yếu tố then chốt khác là nâng cao nhận thức cộng đồng về tầm quan trọng của nước sạch và vệ sinh môi trường.

“Người dân phải hiểu rằng nước sạch không chỉ là vấn đề sức khỏe mà còn là tiêu chí của nông thôn văn minh, là điều kiện để nâng cao chất lượng cuộc sống”, ông Lương Văn Anh nhấn mạnh.

Ông Giáp Mai Thùy, Phó trưởng phòng Quản lý nước sạch nông thôn, Cục Quản lý và xây dựng công trình thủy lợi (Bộ Nông nghiệp và môi trường), cho hay, nguồn lực đầu tư cho nước sạch nông thôn vẫn còn hạn chế. Trong giai đoạn 2020-2024, tổng vốn đầu tư cho cấp nước sạch nông thôn đạt khoảng 13,4 nghìn tỷ đồng, trong khi nhu cầu giai đoạn 2021-2025 ước tính cần tới 29,2 nghìn tỷ đồng, tức còn thiếu gần 16 nghìn tỷ đồng.

Để nâng cao hiệu quả, ông kiến nghị cần hoàn thiện cơ chế, chính sách và đầu tư xây dựng các công trình cấp nước tập trung quy mô lớn, đồng bộ, hiện đại, ưu tiên cho các khu vực khan hiếm nước, vùng hạn hán, vùng sâu, vùng xa và hải đảo.

Tại cấp địa phương, cần hoàn thiện mô hình tổ chức quản lý cấp nước nông thôn theo mô hình chính quyền hai cấp, đồng thời rà soát, điều chỉnh giá nước phù hợp với thực tế. Bên cạnh đó, hướng dẫn người dân áp dụng các giải pháp thu, trữ nước an toàn tại hộ gia đình.

Ông Trần Quang Hùng, Tổng giám đốc Công ty khai thác công trình thủy lợi miền Nam. Ảnh: Nguyễn Thủy

Ông Trần Quang Hùng, Tổng giám đốc Công ty khai thác công trình thủy lợi miền Nam. Ảnh: Nguyễn Thủy

Ở góc nhìn doanh nghiệp, ông Nguyễn Việt Anh cho biết, ngay từ khâu thiết kế và đầu tư, các công trình thủy lợi đã được tính toán để đáp ứng nhiều mục tiêu tổng hợp. Vì vậy, ông Anh đề nghị các địa phương và đơn vị quản lý khai thác cần chủ động phát huy các nguồn thu hợp pháp khác. Chẳng hạn, với các hồ chứa có điều kiện, có thể đề xuất Bộ cho phép khai thác nguồn điện mặt trời trong lòng hồ - một hướng đi vừa tăng nguồn thu, vừa giảm gánh nặng ngân sách Nhà nước.

Ngoài ra, tại khu vực đồng bằng sông Hồng, một số địa phương cũng đã thí điểm thu phí tiêu nước đối với khu công nghiệp, tạo thêm nguồn lực tài chính cho công tác quản lý, vận hành và duy tu công trình thủy lợi.

"Việc khai thác hiệu quả các nguồn thu tiềm năng này, kết hợp với đầu tư hiện đại hóa hệ thống công trình, sẽ giúp ngành thủy lợi nâng cao năng lực chủ động trong điều tiết nước, bảo đảm an toàn công trình, đồng thời phục vụ tốt hơn cho sản xuất và đời sống người dân trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng gay gắt", ông Việt Anh nói.

Ông Trần Quang Hùng, Tổng giám đốc Công ty khai thác công trình thủy lợi miền Nam, nhấn mạnh cần bảo vệ hồ chứa bằng cách quy hoạch “vành đai sinh thái”, trồng rừng, phát triển du lịch sinh thái và hạn chế các hoạt động gây ô nhiễm quanh hồ. Đây không chỉ là biện pháp bảo vệ nguồn nước, mà còn tạo ra sinh kế bền vững cho người dân quanh vùng.

Trước nguy cơ hạn hán, ông đề xuất xây dựng hệ thống hồ chứa ở vùng cao, tích nước mùa mưa để điều phối về vùng thấp theo trọng lực, tiết kiệm năng lượng, tăng chủ động cấp nước. Đồng thời, ông kêu gọi chuyển hướng tư duy sử dụng nước: từ cấp nước đơn ngành sang đa ngành, trong đó ưu tiên sử dụng nước cho sinh hoạt, công nghiệp và đô thị có giá trị kinh tế cao hơn, đồng thời ứng dụng công nghệ để tiết kiệm, tái sử dụng nước trong nông nghiệp.

Đồng thời, các vùng có nguồn nước tốt cần được quy hoạch ưu tiên, đi kèm với cơ chế chính sách ưu đãi để doanh nghiệp mạnh dạn đầu tư vào khu vực nông thôn và vùng ven đô.

Quốc Hải

Nguồn Nhà Quản Trị: https://theleader.vn/hon-40-ho-dan-nong-thon-chua-duoc-su-dung-nuoc-dat-chuan-quoc-gia-d42537.html