Hướng dẫn mới về điều tra, truy tố, xét xử vắng mặt bị can, bị cáo

Thông tư liên tịch 05/2025 mới được ban hành quy định về phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử vắng mặt bị can, bị cáo.

Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, VKSND Tối cao và TAND Tối cao vừa ban hành Thông tư liên tịch (TTLT) số 05/2025 quy định về phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng (THTT) trong điều tra, truy tố, xét xử vắng mặt bị can, bị cáo.

Theo đó, TTLT này quy định về phối hợp giữa các CQTHTT trong thực hiện trình tự, thủ tục điều tra, truy tố, xét xử vắng mặt bị can, bị cáo theo khoản 2, 3 Điều 233; khoản 2, 3 Điều 243; điểm a, b khoản 2 Điều 290 của Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS).

Thông tư liên tịch này có hiệu lực từ ngày 1-7-2025.

 Một phiên tòa xét xử vắng mặt bị cáo. Ảnh minh họa: ĐÔNG HÀ

Một phiên tòa xét xử vắng mặt bị cáo. Ảnh minh họa: ĐÔNG HÀ

Khi nào được điều tra, truy tố, xét xử vắng mặt bị can, bị cáo?

Theo TTLT số 05, việc điều tra, truy tố, xét xử vắng mặt bị can, bị cáo được thực hiện trong hai trường hợp:

Thứ nhất là trường hợp bị can, bị cáo trốn hoặc không biết bị can, bị cáo ở đâu và việc truy nã không có kết quả.

Cụ thể, bị can, bị cáo trốn là trường hợp bị can, bị cáo cố ý trốn tránh, vắng mặt, cơ quan THTT không giao được giấy triệu tập cho bị can, bị cáo hoặc đã giao giấy triệu tập nhưng bị can, bị cáo không chấp hành, trình diện theo giấy triệu tập mà không vì lý do bất khả kháng, trở ngại khách quan hoặc che giấu tung tích, nơi cư trú, nơi làm việc, nơi học tập nhằm không chấp hành quyết định, yêu cầu của cơ quan THTT, người THTT.

Không biết bị can, bị cáo ở đâu là trường hợp cơ quan THTT, người THTT đã tiến hành các hoạt động xác minh theo quy định pháp luật nhưng không xác định được bị can, bị cáo ở đâu.

Việc truy nã không có kết quả là trường hợp CQĐT đã ra quyết định truy nã bị can, bị cáo, áp dụng các biện pháp xác minh, truy bắt bị can, bị cáo nhưng đến khi hết thời hạn điều tra, hết thời hạn truy tố, hết thời hạn chuẩn bị xét xử hoặc hết thời hạn theo quy định tại khoản 3 Điều 7 của TTLT số 05 mà bị can, bị cáo không đầu thú hoặc không bắt được bị can, bị cáo.

Thứ hai là trường hợp bị can, bị cáo đang ở nước ngoài mà không thể triệu tập để phục vụ hoạt động điều tra, truy tố, xét xử.

Theo đó, quy định này được hiểu là trường hợp có căn cứ xác định bị can, bị cáo đã xuất cảnh nhưng chưa có thông tin nhập cảnh và không xác định được nơi đang sinh sống, làm việc, học tập của bị can, bị cáo ở nước ngoài, không triệu tập, dẫn độ được bị can, bị cáo để phục vụ hoạt động điều tra, truy tố, xét xử.

Hoặc trường hợp cơ quan THTT có căn cứ xác định nơi đang sinh sống, làm việc, học tập của bị can, bị cáo ở nước ngoài, đã triệu tập, đã yêu cầu dẫn độ nhưng không thể đưa được bị can, bị cáo trở về Việt Nam để phục vụ hoạt động điều tra, truy tố, xét xử.

Nếu thuộc hai trường hợp nêu trên, CQĐT, VKS, Tòa án có thể ban hành bản kết luận điều tra đề nghị truy tố, bản cáo trạng, xét xử vắng mặt bị can, bị cáo khi có đủ các điều kiện sau:

- Đã thu thập đủ chứng cứ, tài liệu để làm rõ các vấn đề phải chứng minh trong vụ án theo Điều 85 BLTTHS và đủ căn cứ xác định bị can, bị cáo đã thực hiện tội phạm bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử;

- Bảo đảm quyền bào chữa cho bị can, bị cáo vắng mặt theo Điều 16, 291, 351 và Chương V của BLTTHS. Cơ quan THTT đang thụ lý, giải quyết vụ án phải thông báo về quyền nhờ người bào chữa cho người đại diện hoặc người thân thích của bị can, bị cáo để họ nhờ người bào chữa.

Trường hợp người đại diện hoặc người thân thích của bị can, bị cáo không nhờ người bào chữa thì CQTHTT phải chỉ định người bào chữa cho bị can, bị cáo vắng mặt.

Kết luận điều tra và cáo trạng phải có nội dung gì?

Về kết luận điều tra đề nghị truy tố vắng mặt bị can, chậm nhất 20 ngày trước khi kết thúc điều tra vụ án, CQĐT và VKS phải phối hợp, tổ chức họp thống nhất đánh giá toàn bộ chứng cứ, tài liệu và các thủ tục tố tụng của vụ án.

Nếu thấy có đủ căn cứ, điều kiện để kết thúc điều tra, kết luận điều tra đề nghị truy tố trong trường hợp vắng mặt bị can thì CQĐT ban hành bản kết luận điều tra đề nghị truy tố.

Việc thống nhất đánh giá chứng cứ, tài liệu và các thủ tục tố tụng của vụ án phải được lập biên bản, đưa vào hồ sơ vụ án.

Trường hợp không biết bị can đang ở đâu và việc truy nã không có kết quả mà hết thời hạn điều tra nhưng không đủ điều kiện ra kết luận điều tra đề nghị truy tố vắng mặt quy định, CQĐT phải ra quyết định tạm đình chỉ điều tra vụ án hoặc quyết định tạm đình chỉ điều tra bị can theo Điều 229 BLTTHS, việc giải quyết vụ án thực hiện theo thủ tục chung.

Bản kết luận điều tra đề nghị truy tố trong trường hợp vắng mặt bị can phải có các nội dung tại Điều 233 BLTTHS, lý do và căn cứ để kết luận điều tra đề nghị truy tố vắng mặt bị can.

Về truy tố vắng mặt bị can, trường hợp CQĐT kết luận điều tra đề nghị truy tố trong trường hợp vắng mặt bị can thì VKS phải tiến hành các hoạt động để xác định trường hợp và điều kiện ban hành bản cáo trạng truy tố trong trường hợp vắng mặt bị can. Các tài liệu xác định bị can vắng mặt được đưa vào hồ sơ vụ án.

Trường hợp CQĐT kết thúc điều tra theo thủ tục chung nhưng trong giai đoạn truy tố thì bị can trốn hoặc không biết bị can ở đâu, VKS đề nghị CQĐT ra quyết định truy nã bị can. Nếu hết thời hạn truy tố mà việc truy nã không có kết quả thì VKS xem xét, quyết định truy tố vắng mặt bị can nếu có đủ căn cứ, điều kiện.

Trường hợp CQĐT kết luận điều tra đề nghị truy tố trong trường hợp vắng mặt bị can nhưng đến giai đoạn truy tố, bị can trở về, đầu thú hoặc bắt được bị can hoặc trường hợp VKS xác định không đủ căn cứ, điều kiện để quyết định truy tố vắng mặt bị can thì VKS giải quyết vụ án theo thủ tục chung.

Bản cáo trạng truy tố trong trường hợp vắng mặt bị can phải có các nội dung quy định tại Điều 243 BLTTHS, lý do và căn cứ để truy tố vắng mặt bị can.

Quy định về xét xử vắng mặt bị cáo

Trường hợp đã có quyết định truy tố vắng mặt bị can, tòa án phải kiểm tra tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án. Nếu có đủ căn cứ, điều kiện thì hết thời hạn chuẩn bị xét xử, tòa án xem xét, quyết định đưa vụ án ra xét xử vắng mặt bị cáo.

Trường hợp trong giai đoạn chuẩn bị xét xử hoặc giai đoạn xét xử, bị can, bị cáo trở về, đầu thú hoặc bắt được bị can, bị cáo thì tòa án giải quyết vụ án theo thủ tục chung.

Trường hợp VKS quyết định việc truy tố theo thủ tục chung, nhưng trong giai đoạn chuẩn bị xét xử không biết rõ bị can, bị cáo đang ở đâu thì thẩm phán chủ tọa phiên tòa yêu cầu CQĐT ra quyết định truy nã bị can, bị cáo.

Sau khi hết thời hạn chuẩn bị xét xử mà việc truy nã không có kết quả thì CQĐT đã ra quyết định truy nã phải thông báo cho tòa án biết để xem xét, quyết định đưa vụ án ra xét xử vắng mặt bị can, bị cáo nếu có đủ căn cứ, điều kiện theo quy định.

Trường hợp VKS quyết định việc truy tố theo thủ tục chung, sau khi đã có quyết định đưa vụ án ra xét xử mà bị cáo trốn thì HĐXX tạm đình chỉ vụ án và yêu cầu CQĐT truy nã bị cáo.

Hết thời hạn 15 ngày kể từ ngày có quyết định truy nã mà việc truy nã không có kết quả thì CQĐT ra quyết định truy nã phải thông báo cho tòa án biết để xem xét, quyết định phục hồi vụ án và quyết định đưa vụ án ra xét xử vắng mặt bị cáo nếu đủ căn cứ, điều kiện theo quy định. Trường hợp không đủ căn cứ, điều kiện để xét xử vắng mặt thì tòa án giải quyết vụ án theo thủ tục chung.

Trường hợp đã có cáo trạng truy tố vắng mặt bị can, nhưng tòa án xét thấy không có đủ căn cứ, điều kiện (theo khoản 2 Điều 4 Thông tư liên tịch này và khoản 1 Điều 280 BLTTHS) thì tòa án quyết định trả hồ sơ vụ án cho VKS để điều tra bổ sung hoặc tòa án quyết định tạm đình chỉ vụ án. Sau khi điều tra bổ sung theo yêu cầu của tòa án và có đủ căn cứ, điều kiện thì tòa án xem xét, quyết định đưa vụ án ra xét xử vắng mặt bị cáo.

YẾN CHÂU

Nguồn PLO: https://plo.vn/huong-dan-moi-ve-dieu-tra-truy-to-xet-xu-vang-mat-bi-can-bi-cao-post859603.html