Huy động vốn và ưu đãi tài chính cho khai khoáng: Bài toán sống còn

Ngành công nghiệp khoáng sản (CNKS) giữ vai trò chiến lược trong phát triển kinh tế, là nguồn nguyên liệu quan trọng cho công nghiệp chế biến (CB), xuất khẩu và phát triển hạ tầng. Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp (DN) trong lĩnh vực này đang gặp rào cản lớn về vốn, chi phí tài chính, chính sách thuế, phí, ưu đãi chưa đồng bộ…

Cải cách chính sách tài chính về tài nguyên KS: Vấn đề cấp thiết

Theo ghi nhận của Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) từ các DN khai thác khoáng sản (KTKS), hiện có sự bất cập rất lớn về nghĩa vụ tài chính, tạo áp lực chi phí cho DN, dẫn đến nguy cơ mất nguồn thu dài hạn của Nhà nước trong lĩnh vực này.

Theo đó, rất nhiều DN trong ngành phản ánh, tỷ lệ thuế - phí KTKS hiện tại khá cao, có thể chiếm tới 30-40% doanh thu, 50-60% lợi nhuận (với các dự án CB sâu). Thực tế đó làm bào mòn lợi nhuận, thiếu nguồn lực tái đầu tư công nghệ; không khuyến khích tận thu KS nghèo hoặc KS đi kèm (ví dụ như vàng, bạc trong mỏ đa kim), DN càng KT nhiều càng chịu thuế cao, trong khi lợi nhuận biên thấp. Những bất cập này không những không khuyến khích CB sâu (do giá tính thuế áp dụng trên giá bán sản phẩm tài nguyên nên càng CB sâu, giá bán càng cao thì thuế lại càng nhiều), mà còn dẫn đến nguy cơ khai khác ngắn hạn (DN ưu tiên khai thác nhanh để bù đắp chi phí, bỏ qua tận thu tài nguyên và bảo vệ môi trường dài hạn).

Đại diện các DN phát biểu tại Hội thảo

Đại diện các DN phát biểu tại Hội thảo

Từ thực tế hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình, ông Phan Chiến Thắng – Phó Tổng Giám đốc Công ty Masan High – tech Materials (Tập đoàn Masan) phản ánh, hiện nay thủ tục cấp phép KT và CB KS, đặc biệt là các loại KS chiến lược vẫn còn kéo dài làm mất cơ hội đầu tư và tận dụng thời điểm thị trường thuận lợi. Không chỉ vậy, nhiều chính sách thay đổi so với thời điểm đầu tư gây bất lợi cho DN. Cụ thể, trước thời điểm DN đầu tư (năm 2010), thuế tài nguyên thuế suất dưới 10%. Sau khi DN đầu tư, đi vào hoạt động, thuế tài nguyên thuế suất là 6-25%. Ngoài ra, DN còn phải chịu tiền cấp quyền KTKS (năm 2013); phí bảo vệ môi trường phát sinh (năm 2016). Các loại quy định thuế khác thay đổi gây bất lợi cho các sản phẩm KS và lĩnh vực KT (tổng thuế phí – chưa bao gồm thuế thu nhập DN (TNDN) chiếm tới 24-26 doanh thu của DN), làm giảm lợi ích kinh tế của dự án so với thời điểm cấp phép; giảm tính thu hút của các dự án KS…

Bên cạnh đó, ông Thắng cũng cho rằng, mức thuế suất KTKS ở Việt Nam quá cao so với nhiều nước dẫn đến khó cạnh tranh; tình trạng thuế chồng thuế (DN khai khoáng vừa phải đóng thuế tài nguyên và tiền cấp quyền) tạo áp lực cho DN; thuế xuất khẩu KS chế biến sâu, thuế suất TNDN với các DN KT tài nguyên quý hiếm còn cao, cùng với những vướng mắc trong khâu hoàn thuế với nhiều sản phẩm CB sâu đã gây ra rất nhiều khó khăn cho DN.

Hài hòa lợi ích Nhà nước – Doanh nghiệp và người dân

Trước thực tế và những khó khăn nêu trên, Phó Tổng Giám đốc Công ty Masan High – tech Materials đề xuất cơ quan quản lý Nhà nước cần đơn giản hóa thủ tục cấp phép KT, CB KS, đặc biệt là các KS mang tính chiến lược. Trong trường hợp cần đẩy nhanh dự án KT và CB KS, cần ban hành một Nghị quyết hoặc cơ chế đặc thù cho phép DN có thể vừa triển khai đầu tư xây dựng, vừa song song hoàn thiện hồ sơ, nhằm rút ngắn thời gian và thúc đầy hiệu quả đầu tư cho DN; tham vấn DN trong quá trình xây dựng chính sách; xem xét cơ chế đảm bảo quyền lợi cho nhà đầu tư; gộp tiền cấp quyền và thuế tài nguyên, xem xét mức thu để đảm bảo cạnh tranh khu vực, quốc tế. Cụ thể, mức thuế suất nên tham chiếu thông lệ quốc tế khoảng 3%-8% doanh thu tổng tất cả các loại thuế; áp dụng thuế suất 0% đối với KS đã CB sâu; áp dụng thuế suất tiêu chuẩn 20% cho các DN KTKS chiến lược; rà soát quy định để đảm bảo hoàn thuế giá trị gia tăng – GTGT đối với KS đã CB sâu…

Ông Phan Chiến Thắng – Phó Tổng Giám đốc Công ty Masan High – tech Materials phát biểu

Ông Phan Chiến Thắng – Phó Tổng Giám đốc Công ty Masan High – tech Materials phát biểu

Tán thành quan điểm này, ông Nguyễn Văn Phụng – Nguyên Cục trưởng Cục thuế DN lớn Tổng cục thuế (Bộ Tài chính); Ủy viên Ban chấp hành Hiệp hội Pháp chế DN Việt Nam – VBLA (Bộ Tư pháp) cho rằng, cần nghiên cứu, làm rõ nội hàm, phương thức quản lý để có thể thống nhất chính sách hai khoản thu, đồng thời cũng làm giảm bớt thủ tục hành chính trong quản lý, tiết giảm chi phí xã hội trong quản lý thực thi và tuân thủ của DN; áp dụng các cơ chế khuyến khích DN đầu tư bền vững, đổi mới công nghệ KT, CB để tăng hiệu suất thu hồi, tận thu KS, tiết kiệm tài nguyên, bảo vệ môi trường; sửa đổi một số quy định trong Luật Thuế tài nguyên, Phí bảo vệ môi trường đối với KTKS, bảo đảm đơn giản, minh bạch, thống nhất, mức động viên hợp lý; Rà soát lại biểu thuế xuất khẩu, các phụ lục ban hành kèm theo Nghị định 181/2025/NĐ-CP về thuế GTGT theo hướng nới lỏng điều tiết đối với những KS hiện tại trong nước chưa sử dụng buộc phải xuất khẩu, chi tiết hơn đối với các loại CB sâu để áp dụng mức thuế thấp hơn.

Tại Hội thảo “Chính sách tài chính cho ngành CNKS” được VCCI phối hợp với Hội Khoa học công nghệ Mỏ Việt Nam tổ chức sáng 15/10, ông Đậu Anh Tuấn – Phó Tổng Thư ký VCCI nhận định: “Với định hướng phát triển ngành CN khai khoáng hiện tại, chúng ta cần mạnh dạn cải cách chính sách tài chính về tài nguyên KS theo hướng hài hòa lợi ích Nhà nước – Doanh nghiệp và người dân, góp phần thúc đẩy khai khoáng phát triển bền vững và cạnh tranh quốc tế”.

Cụ thể, theo ông Đậu Anh Tuấn, để “cởi trói” chính sách tài chính cho DN ngành khai khoáng, nên: 1. Xác định lại bản chất pháp lý và thống nhất các nghĩa vụ tài chính (Xác định chính xác bản chất pháp lý của các nghĩa vụ tài chính với ngành KS; sửa đổi quy định để thống nhất các nghĩa vụ có tính chất giống nhất, đảm bảo nguyên tắc không trùng lặp trên cùng một đối tượng); 2. “Trần tổng nghĩa vụ tài chính (Mức trần tối đa trên mỗi đơn vị tài nguyên, chẳng hạn không quá 10% giá trị KT, bảo đảm mức nộp ngân sách Nhà nước, DN đủ lợi ích đầu tư); 3. Ưu đãi có điều kiện (Áp dụng ưu đãi tài chính để thúc đẩy CB sâu, tận thu tài nguyên); 4. Tăng minh bạch và quản trị hiệu quả nguồn thu tài nguyên (Công khai thông tin về thu – chi; tham gia Sáng kiến minh bạch các ngành KT)./.

Đoan Trang

Nguồn Doanh nhân & Pháp luật: https://doanhnhan.vn/huy-dong-von-va-uu-dai-tai-chinh-cho-khai-khoang-bai-toan-song-con-87689.html