Kết quả khoa học góp phần phát triển các nghề mới, phát huy nghề truyền thống
Chương trình Khoa học và công nghệ nông thôn miền núi giai đoạn 2021-2025 đã đưa ra được nhiều công nghệ tiên tiến, phù hợp, xây dựng được những mô hình ứng dụng khoa học và công nghệ hiệu quả. Qua đó các địa phương nâng cao năng suất lao động, đa dạng hóa sản phẩm hàng hóa phù hợp thị trường, phát huy lợi thế. Đặc biệt chương trình đã hỗ trợ các doanh nghiệp ở nông thôn đổi mới công nghệ, hình thành các ngành nghề mới, phát huy các nghề truyền thống chủ lực của từng địa phương.

Mô hình trồng dưa lưới Kiro của Nhật Bản theo hướng nông nghiệp công nghệ cao tại xã Mỹ Sơn (huyện Ninh Sơn, Ninh Thuận). Ảnh: Nguyễn Thành/TTXVN
Tái cấu trúc để nâng cao hiệu quả
Chương trình Khoa học và công nghệ nông thôn miền núi giai đoạn 2021-2025 đặt mục tiêu phải chuyển giao được ít nhất 1.500 lượt công nghệ mới, tiên tiến trong đó ít nhất 20% công nghệ cao; Xây dựng được ít nhất 1.000 mô hình ứng dụng chuyển giao tiến bộ khoa học và công nghệ có hiệu quả với 30% số mô hình thực hiện ở miền núi và vùng dân tộc thiểu số, tăng tỉ lệ các mô hình liên kết, ứng dụng khoa học và công nghệ theo chuỗi gia trị hàng hóa, mô hình quy mô sản xuất lớn, quy mô công nghiệp gắn với sản xuất. Đồng thời, đào tạo ít nhất cho 1.500 kỹ thuật viên cơ sở ở địa phương, tập huấn cho khoảng 60.000 lượt nông dân về tiến bộ khoa học và công nghệ được chuyển giao… Đặc biệt, Chương trình cũng đặt mục tiêu ưu tiên các đề xuất dự án do các doanh nghiệp có năng lực thực hiện để hỗ trợ hình thành doanh nghiệp khoa học và công nghệ tại địa phương; dự án có công nghệ chế biến sâu, công nghệ hiện chưa có địa phương đề xuất, ưu tiên chuyển giao các công nghệ về cây trồng chịu hạn mặn.
Báo cáo của Bộ Khoa học và Công nghệ nhấn mạnh: Chương trình Khoa học và công nghệ nông thôn miền núi giai đoạn 2021-2025 đã đạt được nhiều kết quả theo đúng mục tiêu đề ra. Chương trình ưu tiên ứng dụng, chuyển giao sáng chế, các giải pháp hữu ích cho các địa phương, đặc biệt ứng dụng vào các sản phẩm chủ lực của địa phương. Cùng với đó, các sở khoa học và công nghệ địa phương đã chủ động tham mưu cho UBND tỉnh đưa các kết quả khoa học và công nghệ vào ứng dụng và chuyển giao, nhằm tăng sức cạnh tranh sản phẩm hàng hóa, thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội các vùng, miền.
Báo cáo tổng kết của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn năm 2024 cũng nêu rõ: Trong quá trình triển khai Chương trình Khoa học và công nghệ nông thôn miền núi giai đoạn 2021-2025, việc áp dụng công nghệ, mô hình kỹ thuật vào từng vùng, từng địa phương luôn là bài toán khó vì các địa bàn được lựa chọn triển khai dự án thường “có điều kiện khó khăn nhất, chất lượng nguồn nhân lực thấp nhất, kinh tế xã hội phát triển chậm nhất, tiếp cận các dịch vụ phúc lợi xã hội thấp nhất và tỉ lệ nghèo cao” nên không phải cứ công nghệ cao, được các quốc gia phát triển sử dụng là có thể triển khai nhân rộng. Đôi khi các công nghệ này vượt quá khả năng hấp thụ ở cơ sở.
Từ thực tế từng vùng, từng khu vực, từng địa phương, Chương trình đã lựa chọn, xác định và quyết định các công nghệ phù hợp, đáp ứng yêu cầu công nghệ chuyển giao phải được công nhận là tiến bộ kỹ thuật và công nghệ mới theo quy định của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn hoặc được tạo ra từ nhiệm vụ khoa học và công nghệ sử dụng ngân sách nhà nước cấp Bộ, cấp tỉnh, cấp quốc gia.
Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Bùi Thế Duy nhấn mạnh: Thời gian qua, nhiều chương trình khoa học và công nghệ đã mang lại hiệu quả, tuy nhiên để thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, cần tiếp tục tái cơ cấu các chương trình khoa học và công nghệ.
Ngày 11/3 vừa qua, Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Bùi Thế Duy đã họp với các đơn vị liên quan để thống nhất nguyên tắc trong việc tái cấu trúc các chương trình khoa học và công nghệ trong thời gian tới trên quan điểm đảm bảo tính kết nối, không gián đoạn các nội dung đang triển khai, kế thừa quan điểm của Chương trình giai đoạn trước và bổ sung các quan điểm chỉ đạo trong giai đoạn sắp tới để đạt hiệu quả cao hơn.
Nhiều kết quả khoa học được ứng dụng và chuyển giao
Đề tài cấp Nhà nước “Khai thác nguồn gen ngựa bạch Việt Nam” do Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Quang Tuyên và cộng sự Trường Đại học Nông lâm Thái Nguyên làm chủ nhiệm. Kết quả đề tài được thực hiện tại một số tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam với các chỉ tiêu đảm bảo về sinh lý, sinh hóa máu ngựa bạch. Cùng với đó, đề tài xây dựng 10 mô hình liên kết nhân giống phát triển đàn ngựa bạch Việt Nam tại các tỉnh, đánh giá đặc điểm di truyền qua ngoại hình ngựa bạch của bố mẹ và đời con. Khai thác, đánh giá phẩm chất tinh dịch, pha chế bảo tồn tinh dịch và sản xuất tinh cọng rạ ngựa bạch để phối gống và bảo quản lạnh chất di truyền. Đề tài cũng nghiên cứu giá trị dinh dưỡng của thịt ngựa bạch, sản xuất thử nghiệm cao xương ngựa bạch làm thực phẩm chức năng và đề xuất một số giải pháp kỹ thuật nhằm nâng cao hiệu quả nuôi ngựa bạch.
Đề tài “Khai thác nguồn gen ngựa bạch Việt Nam” đã được nhóm nghiên cứu thực hiện và chuyển giao các quy trình kỹ thuật về chăn nuôi ngựa bạch cho nhiều địa phương khu vực miền núi phía Bắc. Điển hình là dự án “Ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật xây dựng mô hình sản xuất giống và chăn nuôi ngựa bạch tại tỉnh Lạng Sơn”. Dự án này thuộc Chương trình hỗ trợ ứng dụng và chuyển giao khoa học và công nghệ phục vụ phát triển kinh tế - xã hội nông thôn, miền núi, vùng dân tộc thiểu số được nghiệm thu năm 2024. Dự án đã chuyển giao công nghệ và ứng dụng thông qua việc xây dựng các mô hình sản xuất giống, chăn nuôi ngựa và mô hình chế biến thức ăn thô xanh cho hộ dân tại các thôn Co Hương, Suối Phầy, Pá Chào, Suối Mạ A, xã Hữu Kiên, huyện Chi Lăng.
Kỹ sư Lương Thành Chung, Trưởng phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Chi Lăng, Chủ nhiệm dự án cho biết: Huyện Chi Lăng là huyện miền núi có điều kiện tự nhiên, khí hậu phù hợp với chăn nuôi Ngựa bạch nên đã đạt được hiệu quả cao. Kết quả địa phương đã làm chủ các quy trình kỹ thuật; xxây dựng mô hình sản xuất giống và chăn nuôi ngựa bạch; mô hình trồng, chế biến thức ăn cho ngựa; Đào tạo kỹ thuật viên cơ sở, tập huấn cho người dân kỹ thuật xử lý chất thải chăn nuôi.
Cũng trên cơ sở kết quả nghiên cứu và quy trình công nghệ của Đề tài “Khai thác nguồn gen ngựa bạch Việt Nam”, Viện Khoa học sự sống (Đại học Nông lâm Thái Nguyên) đã chuyển giao quy trình công nghệ, hỗ trợ ứng dụng các quy trình công nghệ cho dự án phù hợp với thực tế chăn nuôi tại tỉnh Thái Nguyên như: Quy trình chọn lọc và nhân giống ngựa Bạch; Kỹ thuật chăm sóc nuôi dưỡng ngựa Bạch đực giống và ngựa Bạch cái sinh sản; Kỹ thuật chăm sóc nuôi dưỡng ngựa Bạch cai sữa, ngựa sinh trưởng; Kỹ thuật phòng và trị bệnh cho ngựa Bạch; Kỹ thuật trồng và chế biến thức ăn cho ngựa Bạch; Quy trình chế biến rơm rạ, cỏ khô, thân cây ngô cho đại gia súc trong vụ đông xuân; Quy trình xử lý chất thải chăn nuôi đại gia súc...
Là người trực tiếp triển khai dự án, tiến sĩ Nguyễn Văn Đại, Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển chăn nuôi miền núi cho biết: Dự án được triển khai tại các huyện Phú Bình, Phú Lương và thành phố Sông Công (Thái Nguyên) đã góp phần hình thành mô hình liên kết chăn nuôi ngựa bạch thịt và thương mại hóa một số sản phẩm chất lượng cao từ ngựa bạch, giúp người chăn nuôi có thu nhập hiệu quả khoảng trên 100 triệu đồng/hộ/năm). Hiện nay, xã Dương Thành, huyện Phú Bình đã trở thành địa chỉ tin cậy cung cấp giống ngựa bạch cho toàn quốc”. Qua quá trình thực hiện, người chăn nuôi gia đã biết chọn con giống tốt, chăm sóc nuôi dưỡng ngựa bạch, chế biến, tận dụng các sản phẩm phụ nông nghiệp để tiết kiệm được chi phí, phòng ngừa dịch bệnh, nâng cao hiệu suất chăn nuôi, từ đó tăng giá trị của sản phẩm ngựa Bạch.
Dự án “Ứng dụng khoa học và công nghệ xây dựng mô hình sản xuất giống và dược liệu Đinh lăng, Cà gai leo tại tỉnh Thái Bình” cũng là một trong các dự án thuộc Chương trình hỗ trợ ứng dụng, chuyển giao tiến bộ khoa học và công nghệ thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội nông thôn, miền núi, vùng dân tộc thiểu số giai đoạn 2021 - 2025. Trong khuôn khổ dự án, hai cây dược liệu Đinh lăng (Polyscias fruticosa-L.Harms) và cây Cà gai leo (Solanum procumbens Lour.) đã được lựa chọn. Đây là hai loại cây dược liệu được đánh giá thích nghi với điều kiện vùng đồng bằng sông Hồng, có tác dụng tốt đối với sức khỏe con người và được thị trường tiêu thụ chấp nhận.
Hiện nay, việc nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao khoa học và công nghệ phát triển dược liệu trà thảo dược một cách toàn diện, theo hướng sản xuất hàng hóa để cung cấp nguyên liệu cho sản xuất dược liệu và phục vụ công nghiệp chế biến của địa phương, đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng và xuất khẩu đã làm thay đổi cách nghĩ, cách làm trong khai thác tiềm năng đất đai cũng như phát triển cây dược liệu.
Dự án đã được Công ty Cổ phần đầu tư thương mại xuất nhập khẩu Thái Hưng triển khai và sản xuất thử với quy mô 9-15 tấn nguyên liệu thô/tháng. Sau gần 5 năm thực hiện, dự án đã đạt được một số kết quả như: Dự án đã chuyển giao và tiếp nhận thành công 6 quy trình công nghệ; Xây dựng thành công 5 mô hình gồm: Mô hình nhân giống Cà gai leo 2.000 m² vườn giống gốc tạo 840.000 cây giống Cà gai leo; Mô hình trồng, chăm sóc, thu hái Cà gai leo 20 ha đạt 156 tấn dược liệu Cà gai leo khô đạt tiêu chuẩn theo Dược điển Việt Nam; Mô hình nhân giống Đinh lăng 6 ha vườn giống gốc tạo được 420.000 hom giống và 25 tấn dược liệu Đinh lăng củ khô, 30 tấn thân, lá Đinh lăng khô; Mô hình trồng, chăm sóc, thu hái Đinh lăng dự kiến 20 ha đạt 84 tấn dược liệu Đinh lăng khô. Bên cạnh đó, dự án cũng đào tạo được 10 kỹ thuật viên nắm bắt được các quy trình công nghệ để có thể nhân rộng; Đào tạo, tập huấn được cho 200 lượt nông dân nắm vững kỹ thuật, áp dụng thành thạo vào 5 mô hình theo hướng GACP-WHO.
Với nhiều kết quả cụ thể, Chương trình Khoa học và công nghệ giai đoạn 2021-2025 đang góp phần làm thay đổi dần diện mạo nhiều vùng nông thôn miền núi, mang lại niềm tin và hy vọng mới để người nông dân nỗ lực vươn lên trong kỷ nguyên mới.