Kết thúc số phận 'long đong' của dự án đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam?
Đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam được đánh giá sẽ là một công trình trọng điểm quốc gia mang lại nhiều giá trị to lớn cho phát triển kinh tế của đất nước. Dự án chuẩn bị được trình Quốc hội xem xét để triển khai trong giai đoạn tới.
20 năm và 4 lần lập dự án
Dự án đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam đã được Ban chấp hành Trung ương Đảng thống nhất chủ trương đầu tư toàn tuyến tại Hội nghị Trung ương 10 vừa qua, hiện đang nhận được sự quan tâm rất lớn từ người dân và toàn xã hội. Nhìn lại lịch sử, dự án đường sắt tốc độ cao đã trải qua 4 lần lập báo cáo nghiên cứu, trải dài trong gần 20 năm.
Báo cáo nghiên cứu đầu tiên về đường sắt tốc độ cao được Cơ quan Hợp tác Quốc tế Hàn Quốc (KOICA) lập trong giai đoạn 2005-2008, trong đó ưu tiên triển khai 2 đoạn Hà Nội - Hà Tĩnh và TP.HCM - Nha Trang.
Từ bản nghiên cứu của KOICA, đường sắt cao tốc Bắc - Nam đã được xác định sẽ là đường đôi, khổ ray 1.435mm, điện khí hóa, tốc độ thiết kế 350km/h (tốc độ khai thác thực tế 300km/h).
Lần lập báo cáo thứ 2 diễn ra từ giai đoạn 2008-2009 với đơn vị lập là liên danh tư vấn Việt Nam - Nhật Bản (VJC), chủ đầu tư là Tổng công ty Đường sắt Việt Nam. Bản báo cáo này đã xác định đầu tư cả tuyến đường sắt cao tốc từ Hà Nội đến TP.HCM với chi phí 55,8 tỷ USD.
Vào tháng 3/2010, báo cáo của VJC đã vượt qua vòng phê duyệt của Hội đồng Thẩm định Nhà nước và được Bộ Chính trị tán thành. Tháng 5/2010, dự án được trình ra trước Quốc hội.
Tuy nhiên, trong số 439 đại biểu Quốc hội có mặt, chỉ có 185 đại biểu tán thành, 208 đại biểu không tán thành, 34 đại biểu không biểu quyết. Số phiếu tán thành dưới 50%, Quốc hội đã không thông qua dự án.
Từ năm 2011 đến 2013, Chính phủ tiếp tục triển khai nghiên cứu dự án đường sắt cao tốc Bắc - Nam. Kết quả là sự ra đời của bản báo cáo nghiên cứu thứ 3 do Cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA) lập.
Tương đồng với 2 bản báo cáo trước, báo cáo của JICA tiếp tục xác định xây dựng mới tuyến đường sắt đôi, điện khí hóa, khổ ray 1.435mm, chỉ khai thác tàu khách.
Đến năm 2015, Bộ trưởng Bộ GTVT đã chỉ đạo các cơ quan nghiên cứu, lập đề án đường sắt cao tốc Bắc - Nam, trình Quốc hội báo cáo chủ trương đầu tư trước năm 2020.
Năm 2017, Bộ GTVT đã giao Liên danh tư vấn Tedi - Tricc - Tedi South lập báo cáo nghiên cứu tiền khả thi dự án đường sắt cao tốc Bắc - Nam. Cũng từ đây chữ "cao tốc" trong tên dự án được đổi thành "tốc độ cao".
Đến đầu năm 2019, kết quả nghiên cứu tiền khả thi của liên danh tư vấn đã được Bộ GTVT trình lên Chính phủ.
Theo đó, tuyến đường sắt tốc độ cao Hà Nội - TP.HCM sẽ có chiều dài 1.545km, khổ đường 1.435mm, điện khí hóa, đi qua 20 tỉnh thành với 23 nhà ga. Tốc độ chạy tàu theo thiết kế là 350km/h, tốc độ khai thác là 320km/h, tập trung chở khách và hàng hóa nhẹ.
Tổng mức đầu tư là 58,71 tỷ USD. Về số phận của tuyến đường sắt Bắc - Nam cũ, tư vấn đề xuất lập dự án riêng cải tạo tuyến đường này để chuyên chở hàng.
Theo quy trình, báo cáo tiền khả thi do Bộ GTVT trình lên Chính phủ sẽ phải trải qua khâu thẩm định của Hội đồng thẩm định Nhà nước (do Bộ Kế hoạch và Đầu tư là cơ quan thường trực). Hội đồng đã giao nhiệm vụ cho một liên danh tư vấn thẩm tra độc lập.
Sau quá trình thẩm tra, liên danh này đã phát hành báo cáo với nhiều nội dung phản biện lại kết quả nghiên cứu của tư vấn lập dự án. Trong đó, tư vấn thẩm tra cho rằng đầu tư đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam với tốc độ 250km/h (chạy kết hợp cả tàu khách và tàu hàng) sẽ phù hợp hơn là 350km chỉ phục vụ tàu khách.
Theo phương án đề xuất của tư vấn thẩm tra, dự toán đầu tư tăng lên 61,67 tỷ USD, tổng số nhà ga dọc tuyến cũng được đề xuất tăng lên 50 nhà ga.
Với nhiều bất đồng giữa bên lập báo cáo tiền khả thi và bên thẩm tra, dự án lại đi vào bế tắc. Kết quả, báo cáo nghiên cứu được trả lại để liên danh tư vấn Tedi - Tricc - Tedi South tiếp thu, giải trình và hoàn thiện.
Thống nhất làm đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam tốc độ 350 km/giờ
Ngày 28/2/2023, Bộ Chính trị ban hành Kết luận số 49-KL/TW về định hướng phát triển giao thông vận tải đường sắt Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Kết luận này nêu rõ đến năm 2025 phải phấn đấu phê duyệt xong chủ trương đầu tư đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam; khởi công các đoạn ưu tiên trong giai đoạn 2026-2030 gồm Hà Nội - Vinh; TP.HCM - Nha Trang. Đến năm 2035, toàn bộ dự án phải hoàn thành.
Trong cuộc họp ngày 11/7/2024, Thủ tướng Phạm Minh Chính yêu cầu nghiên cứu lựa chọn tốc độ thiết kế khoảng 350km/h; vận tải hành khách là chủ yếu, kết hợp vận tải hàng hóa nhanh và phục vụ quốc phòng - an ninh khi có nhu cầu.
Trên cơ sở chỉ đạo của Chính phủ, Bộ GTVT đã yêu cầu Tư vấn lập dự án hoàn thiện lại báo cáo tiền khả thi, có tiếp thu Kết luận 49 và một phần các góp ý của Tư vấn thẩm tra.
Bản báo cáo sau khi chỉnh sửa vẫn xác định tốc độ thiết kế là 350km/h. Tuy nhiên, phần công năng được điều chỉnh từ "khai thác riêng tàu khách" thành "vận chuyển hành khách, phục vụ quốc phòng, an ninh và vận tải hàng hóa khi cần thiết".
Mới đây, Bộ GTVT đã trình Đề án chủ trương đầu tư đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam lên Bộ Chính trị. Bộ Chính trị đã đưa dự án này ra Trung ương thảo luận và được nhất trí. Đây là những bước tiến triển rất quan trọng của dự án.
Hiện nay, Bộ GTVT và các đơn vị liên quan đang khẩn trương xây dựng báo cáo nghiên cứu tiền khả thi dự án đầu tư đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam, chuẩn bị trình tự, hồ sơ thủ tục để trình Quốc hội xem xét, cho ý kiến vào kỳ họp tháng 10/2024.
Đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam qua 20 tỉnh, thành phố, có 23 ga khách
Theo Bộ GTVT, mục tiêu chung xây dựng tuyến đường sắt tốc độ cao nhằm đáp ứng nhu cầu vận tải, góp phần tái cơ cấu thị phần vận tải trên hành lang Bắc - Nam một cách tối ưu, bền vững, tạo tiền đề, động lực cho phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng an ninh. Về mục tiêu cụ thể, phấn đấu phê duyệt chủ trương đầu tư trước năm 2025; giải phóng mặt bằng, khởi công trước năm 2030; hoàn thành toàn tuyến trước năm 2045.
Đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam được đánh giá sẽ là một công trình trọng điểm quốc gia mang lại nhiều giá trị to lớn cho phát triển kinh tế của đất nước. Vậy phương án đầu tư nào cho đường sắt tốc độ cao của Việt Nam? Đây là câu hỏi đang rất được quan tâm.
Từ nghiên cứu, tham khảo nhiều mô hình đường sắt tốc độ cao trên thế giới, phương án đầu tư nào sẽ phù hợp với Việt Nam?
Về tốc độ, tốc độ 350km/h, cự ly ga trung bình 50-70km đang là xu hướng thế giới, được chứng minh là phù hợp và hiệu quả hiện nay. Với tốc độ này, thời gian từ Hà Nội đến TP. Hồ Chí Minh còn 5h30 phút.
Các chặng Hà Nội đi Vinh, Đà Nẵng, Nha Trang sẽ chỉ mất lần lượt là 1,3 giờ; 2,7 giờ và 4,3 giờ, nhanh hơn nhiều so với đường sắt hiện hữu và ô tô khách. Thậm chí có chặng ngắn còn nhanh hơn đi máy bay (nếu tính cả thời gian chờ đợi).
Về công năng vận tải, Đường sắt tốc độ cao sẽ vận chuyển hành khách và hàng hóa nhẹ khi có nhu cầu. Đường sắt Bắc - Nam hiện hữu sẽ chuyên vận chuyển hàng hóa và khách du lịch ngắm cảnh chặng ngắn.
Quy mô đầu tư, tổng chiều dài 1.541km, đường đôi khổ tiêu chuẩn 1435mm. Bắt đầu từ ga Ngọc Hồi, Hà Nội, qua 20 tỉnh, thành phố gồm: Hà Nội, Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận, Đồng Nai và kết thúc tại ga Thủ Thiêm, TP Hồ Chí Minh. Trên toàn tuyến có 23 ga khách, cách nhau trung bình khoảng 67km, 5 ga hàng gắn với các đầu mối hàng hóa.