Khai thác sâu FTA, dệt may vượt 'ải' nguyên phụ liệu

Tỷ lệ tận dụng ưu đãi từ các FTA của ngành dệt may vẫn thấp hơn kỳ vọng, mấu chốt nằm ở quy tắc xuất xứ và sự thiếu hụt nguồn nguyên phụ liệu trong nước.

Phóng viên đã có cuộc trao đổi với TS. Nguyễn Thị Thu Trang - Chuyên gia pháp luật và hội nhập Kinh tế quốc tế, nguyên Giám đốc Trung tâm WTO và Hội nhập, Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam - để làm rõ nguyên nhân và những yêu cầu đặt ra đối với chính sách phát triển công nghiệp phụ trợ ngành dệt may.

Tỷ lệ tận dụng C/O ưu đãi phân hóa rõ ràng

- Ngành dệt may có kim ngạch xuất khẩu lớn nhưng tỷ lệ tận dụng C/O ưu đãi hay khai thác ưu thế từ các hiệp định thương mại tự do (FTA) chưa cao, theo bà, nguyên nhân chính là gì?

TS. Nguyễn Thị Thu Trang - Chuyên gia pháp luật và hội nhập Kinh tế quốc tế, nguyên Giám đốc Trung tâm WTO và Hội nhập, Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam.

TS. Nguyễn Thị Thu Trang - Chuyên gia pháp luật và hội nhập Kinh tế quốc tế, nguyên Giám đốc Trung tâm WTO và Hội nhập, Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam.

TS. Nguyễn Thị Thu Trang: Tỷ lệ tận dụng C/O ưu đãi của ngành dệt may có sự phân hóa rất rõ và phụ thuộc nhiều vào quy tắc xuất xứ của từng FTA. Với những hiệp định được ký kết sớm, quy tắc xuất xứ còn tương đối “mở”, chỉ cần thực hiện khâu cắt, may tại Việt Nam là có thể đáp ứng yêu cầu, nên tỷ lệ tận dụng ưu đãi khá cao.

Tuy nhiên, ở các FTA thế hệ mới, đối tác ngày càng siết chặt quy tắc xuất xứ. Chẳng hạn, Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA) yêu cầu xuất xứ “từ vải trở đi”, tức là vải phải được sản xuất tại Việt Nam hoặc từ nguồn được phép cộng gộp thì hàng may mặc mới đủ điều kiện hưởng ưu đãi. Trong khi đó, Hiệp định Đối tác toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) còn khắt khe hơn, với quy định “từ sợi trở đi”, khiến việc đáp ứng xuất xứ càng khó và tỷ lệ tận dụng ưu đãi càng thấp.

Vấn đề cốt lõi ở đây chính là nguồn nguyên phụ liệu. Khi doanh nghiệp vẫn phải nhập khẩu phần lớn vải, sợi từ các thị trường không nằm trong phạm vi cộng gộp, thì dù năng lực cắt, may rất tốt, hàng hóa vẫn không đáp ứng được xuất xứ để xin C/O ưu đãi.

- Trong bối cảnh đó, theo bà, doanh nghiệp có thể làm gì để cải thiện khả năng tận dụng ưu đãi?

TS. Nguyễn Thị Thu Trang: Thực tế, việc đàm phán để nới lỏng quy tắc xuất xứ hiện nay là rất khó, gần như không khả thi. Vì vậy, với các hiệp định và thị trường mới như EU, CPTPP hay Canada, doanh nghiệp buộc phải tính đến việc điều chỉnh chuỗi cung ứng nguyên liệu để phù hợp với yêu cầu xuất xứ.

Tuy nhiên, đây là một bài toán kinh tế rất cụ thể. Nếu chi phí thay thế nguyên liệu quá cao, vượt quá mức ưu đãi thuế quan có thể được hưởng, thì doanh nghiệp sẽ không lựa chọn. Do đó, giải pháp phụ thuộc nhiều vào năng lực và chiến lược của từng doanh nghiệp. Những doanh nghiệp có tiềm lực và tầm nhìn dài hạn có thể đầu tư sản xuất nguyên phụ liệu, hoặc đặt hàng, thuê ngoài các nhà sản xuất trong nước. Một số doanh nghiệp khác thì tìm nguồn nguyên liệu từ các thị trường được phép cộng gộp, như tận dụng quy định EVFTA cho phép cộng gộp nguyên liệu dệt may từ Hàn Quốc.

Thiếu nguyên phụ liệu là "điểm nghẽn" của dệt may Việt Nam trong khai thác sâu các FTA. Ảnh minh họa

Thiếu nguyên phụ liệu là "điểm nghẽn" của dệt may Việt Nam trong khai thác sâu các FTA. Ảnh minh họa

Tuy nhiên, cũng phải thẳng thắn nhìn nhận rằng có những trường hợp doanh nghiệp không thể thay đổi. Công nghiệp phụ trợ trong nước cho ngành dệt may hiện vẫn còn hạn chế; nguyên liệu trong nước có giá rất cao, thậm chí có lúc không có hàng để mua. Việc chuyển sang nguồn nguyên liệu khác cũng không phải lúc nào khả thi, do thiếu nguồn cung hoặc chi phí quá lớn. Với những trường hợp này, doanh nghiệp không thể tự xoay xở, mà rất cần sự hỗ trợ từ chính sách.

Cần chính sách hỗ trợ đồng bộ hơn

- Như vậy, vai trò của chính sách trong phát triển nguồn nguyên phụ liệu cho dệt may cần được nhìn nhận ra sao, thưa bà?

TS. Nguyễn Thị Thu Trang: Thực tế, chúng ta đã nói đến việc phát triển công nghiệp phụ trợ, xây dựng các khu công nghiệp dệt, nhuộm tập trung từ rất lâu. Vấn đề không nằm ở việc thiếu chiến lược, mà là khâu triển khai chưa thực sự đồng bộ và hiệu quả.

Hiện nay, đã có những doanh nghiệp đầu tư vào sản xuất nguyên phụ liệu, nhưng định hướng của doanh nghiệp và chính sách vẫn chưa “gặp nhau”. Điều này đòi hỏi sự kết nối hai chiều: Cơ quan quản lý khi xây dựng chính sách cần lắng nghe doanh nghiệp để hiểu họ cần gì, đang phát triển theo hướng nào; ngược lại, doanh nghiệp cũng phải chủ động bám sát và tận dụng các định hướng chính sách.

Một điểm nghẽn lớn khác là sự rời rạc giữa các chính sách liên quan. Phát triển dệt, nhuộm không thể chỉ nói ở tầm chiến lược ngành, mà phải đi kèm chính sách đất đai, thuế, môi trường, hạ tầng. Trong thực tế, có địa phương vẫn không khuyến khích dệt, nhuộm do tư duy cũ, lo ngại ô nhiễm, trong khi chưa cập nhật đầy đủ rằng công nghệ hiện nay đã khác xa trước đây. Thậm chí, có những yêu cầu môi trường bị đẩy lên quá cao, vượt khả năng đáp ứng của doanh nghiệp, khiến họ không thể đầu tư.

Nếu chính sách tiếp tục thiếu liên thông, thiếu đối thoại, thì chính sách và thực tiễn sẽ đi theo hai con đường song song. Trong bối cảnh Việt Nam đang tăng tốc cho mục tiêu tăng trưởng cao, tôi kỳ vọng rằng, phát triển công nghiệp phụ trợ, trong đó có nguyên phụ liệu dệt may, sẽ được đặt đúng vị trí, triển khai nhanh và quyết liệt hơn. Khi đó, không chỉ dệt may mà nhiều ngành xuất khẩu khác cũng được hưởng lợi, giá trị gia tăng được giữ lại nhiều hơn trong nước và doanh nghiệp có nền tảng vững chắc hơn để ứng phó với những biến động phức tạp của thương mại toàn cầu.

- Trân trọng cảm ơn bà!

Dệt may là ngành có kim ngạch xuất khẩu lớn nhưng tỷ lệ tận dụng C/O ưu đãi hay khai thác sâu các FTA chưa đạt kỳ vọng. Phát triển hơn nữa, đa dạng hơn nữa nguồn cung nguyên phụ liệu là khuyến cáo được các chuyên gia đưa ra nhằm cải thiện tỷ lệ này.

Hải Linh thực hiện

Nguồn Công Thương: https://congthuong.vn/khai-thac-sau-fta-det-may-vuot-ai-nguyen-phu-lieu-434621.html