Khơi thông dòng vốn cho kinh tế tư nhân

Phát triển khu vực kinh tế tư nhân thành động lực tăng trưởng chủ đạo đang là mục tiêu lớn của Chính phủ. Để hiện thực hóa, cần mở rộng các kênh huy động vốn trung và dài hạn, giảm bớt sự phụ thuộc vào tín dụng ngân hàng, qua đó khơi thông dòng vốn cho doanh nghiệp.

Doanh nghiệp tư nhân đang được tạo điều kiện thuận lợi để tiếp cận nguồn vốn

Doanh nghiệp tư nhân đang được tạo điều kiện thuận lợi để tiếp cận nguồn vốn

Trái phiếu doanh nghiệp - kênh vốn thiết yếu

Ông Đỗ Ngọc Quỳnh, Tổng thư ký Hiệp hội Thị trường trái phiếu Việt Nam, Phó chủ tịch FiinRatings cho rằng, thị trường trái phiếu doanh nghiệp là một cấu phần quan trọng của thị trường tài chính, đóng vai trò kênh huy động vốn thiết yếu cho doanh nghiệp phát triển sản xuất - kinh doanh. Mặc dù ngân hàng thương mại vẫn giữ vai trò chủ đạo trên thị trường trái phiếu, song nhiều doanh nghiệp ở các lĩnh vực khác cũng đang tham gia sâu hơn khi các chính sách ngày càng tích cực.

Ông Bùi Hoàng Hải, Phó chủ tịch Ủy ban Chứng khoán Nhà nước khẳng định, Chính phủ quyết tâm duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững, đặt mục tiêu GDP năm 2025 tăng từ 8% trở lên, hướng tới tăng trưởng hai con số trong giai đoạn 2026-2030. Đây là nền tảng quan trọng để Việt Nam hiện thực hóa khát vọng trở thành quốc gia có thu nhập trung bình cao vào năm 2030. Đầu tư công tiếp tục đóng vai trò động lực then chốt; năm 2025 là năm cuối của kế hoạch đầu tư công trung hạn 2021-2025, với mức đầu tư dự kiến 791.000 tỷ đồng (tương đương 6,4% GDP), tạo cú huých cho nhiều ngành công nghiệp và hạ tầng. Bên cạnh đó, tiêu dùng nội địa duy trì đà tăng nhờ tầng lớp trung lưu mở rộng và niềm tin tiêu dùng dần phục hồi.

Trong bức tranh chung đó, khu vực kinh tế tư nhân tiếp tục được Chính phủ xác định là động lực quan trọng. Các nghị quyết lớn như Nghị quyết 68-NQ/TW của Trung ương, Nghị quyết 198/2025/QH15 của Quốc hội và Nghị quyết 138/NQ-CP của Chính phủ đều nhấn mạnh vai trò cần phát huy của khu vực này. Cùng với đó, nhiều biện pháp đang được triển khai như cải cách thủ tục hành chính, hỗ trợ đổi mới sáng tạo, thúc đẩy chuyển đổi số và tạo điều kiện thuận lợi hơn để doanh nghiệp tư nhân tiếp cận nguồn vốn. Chính phủ cũng khẳng định: nhu cầu vốn cho khu vực tư nhân là rất lớn - đây là cơ hội cho các định chế tài chính, thị trường tín dụng, thị trường trái phiếu doanh nghiệp.

Giải pháp phát triển thị trường vốn

Khơi thông thị trường vốn, đặc biệt là trái phiếu doanh nghiệp, chính là chìa khóa để giảm phụ thuộc tín dụng ngân hàng và mở rộng dòng vốn dài hạn cho khu vực tư nhân.

Ông Bùi Hoàng Hải cho biết, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước đang tập trung triển khai nhiều giải pháp đồng bộ để phát triển thị trường vốn Việt Nam theo hướng an toàn, minh bạch và hiệu quả. Một số trụ cột quan trọng bao gồm: khuyến khích sự tham gia của các quỹ đầu tư trong và ngoài nước, đặc biệt là quỹ chuyên biệt, quỹ hạ tầng, quỹ ESG; nghiên cứu cơ chế bảo lãnh trái phiếu bởi các tổ chức tài chính có năng lực; mở rộng kênh huy động vốn trung và dài hạn.

Cùng với đó, cơ quan quản lý rà soát quy định phân bổ tài sản của các định chế tài chính vào trái phiếu doanh nghiệp, đảm bảo an toàn nhưng vẫn hỗ trợ phát triển thị trường; tiếp tục thúc đẩy lộ trình nâng hạng thị trường chứng khoán; cải thiện tiêu chuẩn IPO, niêm yết; chuẩn hóa điều kiện phát hành cổ phiếu và trái phiếu theo thông lệ quốc tế; hoàn thiện cơ chế công bố thông tin, nhất là với doanh nghiệp niêm yết và phát hành trái phiếu.

Ủy ban Chứng khoán Nhà nước cũng đang xây dựng mô hình giám sát tích hợp, tăng cường phối hợp liên ngành để đảm bảo an toàn hệ thống; phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp theo hướng công khai, minh bạch, bảo vệ nhà đầu tư và đa dạng hóa sản phẩm. Đồng thời, cơ quan quản lý tiếp tục hoàn thiện cơ chế chào bán riêng lẻ (trong Luật Doanh nghiệp sửa đổi 2025) và chào bán ra công chúng (theo Nghị định 155/2020/NĐ-CP), thúc đẩy xếp hạng tín nhiệm và khuyến khích sự tham gia của các định chế bảo lãnh tín dụng để gia tăng niềm tin cho nhà đầu tư.

Ông Đỗ Ngọc Quỳnh cho rằng, kỷ nguyên tăng trưởng mới của kinh tế Việt Nam đang mở ra, trong đó khu vực tư nhân là động lực quan trọng. Nhu cầu vốn cho đầu tư, mở rộng sản xuất - kinh doanh ngày càng lớn, tạo cơ hội cho thị trường tài chính, từ chứng khoán đến vốn nợ, từ thị trường trong nước đến quốc tế. Các doanh nghiệp tư nhân cần vốn trung và dài hạn để đầu tư công nghệ, nâng cao năng lực cạnh tranh, tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu. Đây là tiền đề để phát triển thị trường tài chính, đặc biệt là thị trường vốn.

Theo ông Quỳnh, quy mô toàn thị trường trái phiếu doanh nghiệp Việt Nam hiện đạt khoảng 1,25 triệu tỷ đồng, tương đương 10,8% GDP năm 2024, trong khi mục tiêu đến năm 2030 là 25%. Trong khi đó, ở nhiều nước châu Á như Hàn Quốc, Thái Lan, Malaysia, tỷ lệ này thường đạt 30-40% GDP và tại Mỹ, Nhật Bản là trên 100% GDP. Các thị trường đi trước đã hình thành cơ cấu sản phẩm đa dạng (trái phiếu công ty, trái phiếu xanh, trái phiếu chuyển đổi, chứng khoán hóa nợ...) với sự tham gia sâu rộng của các định chế tài chính dài hạn như quỹ hưu trí, công ty bảo hiểm, quỹ đầu tư trái phiếu và cả nhà đầu tư cá nhân thông qua kênh phân phối minh bạch.

“Khoảng cách này cho thấy, để thị trường trái phiếu doanh nghiệp nói riêng và thị trường vốn nợ nói chung phát huy vai trò động lực, Việt Nam cần khắc phục các điểm nghẽn: cơ sở nhà đầu tư còn hạn chế, chủ yếu dựa vào ngân hàng thương mại; chất lượng và tính minh bạch hàng hóa chưa đồng đều; cơ chế bảo lãnh tín dụng, xếp hạng tín nhiệm và quản trị rủi ro chưa phát huy hết vai trò; hạ tầng thông tin, giao dịch, giám sát còn bất cập”, ông Quỳnh nói.

Theo đó, việc khơi thông và phát triển mạnh mẽ thị trường vốn nội địa - đặc biệt là thị trường vốn nợ - là điều kiện tiên quyết, giúp giảm phụ thuộc vào tín dụng ngân hàng và tạo nền tảng cho dòng vốn dài hạn, chi phí hợp lý, minh bạch chảy vào khu vực tư nhân.

Để biến điều kiện này thành hiện thực, ông Quỳnh cho rằng, cần tập trung vào ba trụ cột:

Thứ nhất, thay đổi chính sách. Những cải cách pháp lý gần đây như Luật Chứng khoán sửa đổi 2024, Luật Doanh nghiệp sửa đổi 2025, Nghị quyết 68, Nghị quyết 198 về phát triển kinh tế tư nhân đã đặt nền tảng quan trọng, tạo cú huých để chào bán ra công chúng trở thành kênh huy động vốn chủ đạo.

Thứ hai, minh bạch thông tin. Một thị trường vốn chỉ vận hành hiệu quả khi nhà đầu tư được đảm bảo về tính minh bạch và có công cụ đánh giá rủi ro đáng tin cậy, trong đó xếp hạng tín nhiệm là then chốt.

Thứ ba, đa dạng hóa mô hình vốn và công cụ hỗ trợ. Bên cạnh các sản phẩm truyền thống, cần phát triển thêm quỹ đầu tư, quỹ bảo lãnh - như mô hình Quỹ Bảo lãnh tín dụng đầu tư (CGIF) của Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) - để giúp doanh nghiệp có thêm “tấm khiên tín nhiệm” khi tiếp cận thị trường. Đây là con đường giảm chi phí vốn và mở rộng cơ hội tiếp cận nhà đầu tư trong và ngoài nước.

Bà Soleil Corpuz, Chuyên viên Phân tích Nghiên cứu cấp cao CGIF nhận định, sau hai năm khó khăn, thị trường trái phiếu doanh nghiệp Việt Nam đã cho thấy sự sẵn sàng phục hồi mạnh mẽ, với các tác động tích cực từ thay đổi chính sách ngày càng rõ nét. Điển hình là Nghị quyết 68/NQ-TW với định hướng dài hạn, khuyến khích phát huy vai trò kinh tế tư nhân - hiện đóng góp khoảng 50% GDP.

Tuy nhiên, theo bà Soleil, cần tiếp tục hoàn thiện khả năng tiếp cận vốn tín dụng, nhất là với doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME); phát triển tín dụng xanh; rà soát khung pháp lý cho các quỹ bảo lãnh tín dụng, quỹ hỗ trợ SME; cho phép tổ chức tín dụng, quỹ tài chính, tổ chức xếp hạng tín nhiệm tham gia đánh giá tín nhiệm doanh nghiệp tư nhân. Đây sẽ là cơ sở để gia tăng cho vay SME, mở rộng tỷ lệ đầu tư vào thị trường vốn của quỹ bảo hiểm xã hội, quỹ hưu trí tự nguyện.

Thùy Vinh

Nguồn ĐTCK: https://tinnhanhchungkhoan.vn/khoi-thong-dong-von-cho-kinh-te-tu-nhan-post375804.html