Khung thỏa thuận thuế đối ứng Việt Nam - Mỹ: Tạo nền tảng ổn định lâu dài cho thương mại song phương

Khung thỏa thuận thuế đối ứng vừa được Việt Nam và Mỹ công bố, tạo nền tảng ổn định lâu dài cho thương mại song phương. Tuy nhiên, mức thuế 20% vẫn là thách thức lớn với các ngành xuất khẩu chủ lực. Trong bối cảnh đó, doanh nghiệp Việt đang chuyển từ ứng phó sang chủ động đàm phán lại cấu trúc giá với đối tác Mỹ, tăng tốc thương mại điện tử xuyên biên giới và đẩy mạnh nội địa hóa chuỗi cung ứng.

Thị trường Mỹ vẫn là “đầu tàu”

Theo số liệu của Cục Thống kê (Bộ Tài chính), 9 tháng đầu năm 2025, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam đạt 680,66 tỷ USD, tăng 17,3% so với cùng kỳ. Mỹ tiếp tục là thị trường xuất khẩu lớn nhất với 112,8 tỷ USD, chiếm 32,4% tổng kim ngạch. Điều này cho thấy, thị trường Mỹ đóng vai trò “đầu kéo” quan trọng đối với tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam.

Tuy nhiên, mức thuế đối ứng 20% mà Mỹ đang áp dụng đối với nhiều nhóm hàng Việt Nam đã tạo sức ép đáng kể, nhất là với các ngành biên lợi nhuận thấp như dệt may, da giày, thủy sản và gỗ nội thất… trong ngắn hạn. Nhưng, về dài hạn thì khung thương mại đối ứng vừa được thống nhất sẽ giúp doanh nghiệp chủ động hơn trong việc tái cơ cấu lại thị phần xuất khẩu của mình.

“Khi cơ chế thuế rõ ràng, doanh nghiệp có cơ sở đàm phán chia sẻ chi phí với nhà nhập khẩu để giữ giá bán ổn định, tránh tác động đến sức mua”, ông Nguyễn Ngọc Hòa, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp TPHCM (HUBA) nhấn mạnh.

Cũng theo ông Hòa, trước mắt doanh nghiệp cần tái cơ cấu chi phí theo hướng tinh gọn nhưng không hy sinh chất lượng. Thực tế cho thấy, từ tháng 4-2025, ngay khi có thông báo về mức thuế xuất khẩu mới của Mỹ, nhiều nhà xuất khẩu trong nước đã rà soát lại định mức nguyên liệu, chuyển sang hợp đồng dài hạn với nhà cung ứng nội địa để khóa giá, đồng thời chuẩn hóa quy trình nhằm giảm hao hụt và lỗi kỹ thuật.

Với những nhóm hàng biên lợi nhuận mỏng, mục tiêu là duy trì mức tăng giá bán thấp hơn phần thuế phát sinh nhờ cắt trung gian, tối ưu logistics và cùng đối tác Mỹ chia sẻ lợi nhuận theo từng đợt giao hàng, tránh sốc giá một lần. Cách triển khai theo quý hoặc theo mùa mua sắm ở Mỹ đang tỏ ra hiệu quả, vì cho phép điều chỉnh linh hoạt theo diễn biến cầu tiêu dùng.

 Khách mời tại Diễn đàn xuất khẩu 2025 - kết nối chuỗi cung ứng hàng hóa quốc tế ở Trung tâm Hội chợ Triển lãm Sài Gòn. Ảnh: Hoàng Hùng

Khách mời tại Diễn đàn xuất khẩu 2025 - kết nối chuỗi cung ứng hàng hóa quốc tế ở Trung tâm Hội chợ Triển lãm Sài Gòn. Ảnh: Hoàng Hùng

“Trọng tâm không nằm ở mức thuế cao hay thấp, mà ở chỗ không được đẩy toàn bộ chi phí thuế vào giá bán, bởi điều này sẽ làm giảm sức cạnh tranh ngay lập tức tại thị trường Mỹ. Nhiều doanh nghiệp đã chủ động đàm phán lại cấu trúc lợi nhuận với nhà nhập khẩu, phân bổ chi phí theo từng đơn hàng để giữ ổn định thị phần trong bối cảnh sức mua của người tiêu dùng Mỹ chưa phục hồi mạnh”, TS Cấn Văn Lực, chuyên gia kinh tế, thành viên Tổ tư vấn của Thủ tướng Chính phủ nhấn mạnh.

Một trụ cột quan trọng lúc này là tăng nội địa hóa và “xanh hóa” chuỗi cung ứng để đáp ứng yêu cầu tuân thủ mới từ phía Mỹ và nhiều thị trường khác. Theo ông Vũ Đức Giang, Chủ tịch Hiệp hội Dệt may Việt Nam (VITAS), thị trường Mỹ hiện chiếm hơn 38% kim ngạch xuất khẩu dệt may của Việt Nam, nên mức thuế đối ứng sẽ tác động trực tiếp đến đơn hàng và việc làm của khoảng 1,9 triệu lao động. Tuy nhiên, đây cũng là thời điểm buộc phải chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng chủ động và bền vững hơn...

Bứt tốc thương mại điện tử

Ở góc độ vĩ mô, TS Võ Trí Thành, Viện trưởng Viện Nghiên cứu phát triển thương hiệu và cạnh tranh, cho rằng, chiến lược ứng phó của Việt Nam cần tách thành hai giai đoạn rõ rệt. Trước mắt, doanh nghiệp tập trung vào đàm phán chia sẻ chi phí thuế với nhà nhập khẩu, đồng thời tận dụng các gói hỗ trợ tín dụng và cơ chế bảo lãnh đơn hàng để duy trì sản xuất và không gián đoạn việc làm.

Về dài hạn, cũng phải cần thấy rằng dư địa thị trường của Việt Nam vẫn rộng mở. Ngoài Mỹ, 4 thị trường lớn khác là Trung Quốc, châu Âu, ASEAN và Nhật Bản chiếm tổng cộng khoảng 75% kim ngạch xuất khẩu.

Tuy nhiên, “mở rộng thị trường” không còn chỉ là tham gia hội chợ và tìm đại lý như trước, mà chuyển sang mô hình thương mại điện tử xuyên biên giới kết hợp logistics số.

Ông Bùi Huy Hoàng, Phó Giám đốc Trung tâm Phát triển thương mại điện tử và công nghệ số, Bộ Công thương, cho biết chỉ với một gian hàng số chuẩn hóa, doanh nghiệp Việt có thể tiếp cận đồng thời hàng chục ngàn khách hàng tại nhiều quốc gia. Việc cắt giảm trung gian phân phối giúp tiết kiệm 15%-20% chi phí, tạo dư địa bù phần thuế 20% mà vẫn giữ được giá cạnh tranh.

Trước đây, logistics là điểm nghẽn, nhưng theo ông Trần Chí Dũng, Tổng Thư ký Hiệp hội Doanh nghiệp dịch vụ Logistics Việt Nam (VLA), mạng lưới logistics của ASEAN hiện có trên 40.000 doanh nghiệp thành viên hoạt động, kết nối rộng khắp châu Á - Thái Bình Dương và có khả năng mở rộng toàn cầu thông qua hệ thống Liên đoàn các Hiệp hội Giao nhận vận tải quốc tế (FIATA). Nếu tận dụng tốt nền tảng số, doanh nghiệp logistics Việt Nam hoàn toàn có thể tham gia sâu vào chuỗi giá trị này, rút ngắn thời gian vận chuyển, giảm chi phí lưu thông hàng hóa và nâng cao hiệu suất vận hành.

Hiện mạng lưới logistics ASEAN - FIATA đang mở ra các tuyến vận chuyển ngắn, nhanh và chi phí tối ưu hơn sang Mỹ và nhiều thị trường khác. Khi doanh nghiệp kết hợp thương mại điện tử và fulfillment (quy trình hoàn tất đơn hàng) tại sở tại, việc mở rộng sang châu Âu, Nhật Bản và Trung Đông trở nên thuận lợi hơn, giảm lệ thuộc vào một thị trường duy nhất.

MINH XUÂN

Nguồn SGGP: https://sggp.org.vn/khung-thoa-thuan-thue-doi-ung-viet-nam-my-tao-nen-tang-on-dinh-lau-dai-cho-thuong-mai-song-phuong-post820482.html