Kích hoạt thị trường carbon xanh từ rừng ngập mặn Việt Nam
Rừng ngập mặn có thể tạo dòng thu từ tín chỉ carbon xanh nếu chuẩn hóa đo đếm, làm rõ quyền sở hữu và chia sẻ lợi ích minh bạch cho cộng đồng ven biển.

Rừng ngập mặn không chỉ là “đê mềm” giảm sóng, giữ bãi mà còn là một kho dự trữ carbon quy mô lớn nhờ trữ lượng tồn trong sinh khối và đặc biệt là lớp bùn trầm tích yếm khí. Ở các dải bờ Cà Mau, Bạc Liêu, Sóc Trăng, Trà Vinh, Bến Tre đến Nam Định, Thái Bình (cũ), dải rừng trước đê đã chứng minh hiệu quả giảm năng lượng sóng, hạn chế xói lở và tiết kiệm chi phí duy tu kè cứng. Khi biến đổi khí hậu làm nước biển dâng, cùng mưa bão cực đoan xuất hiện dày hơn, giá trị dịch vụ bảo vệ bờ của rừng càng thể hiện rõ. Trên nền tảng sinh thái đó, “carbon xanh (blue carbon)” – tức lượng carbon được rừng ngập mặn hấp thụ và lưu trữ có thể đo đếm, xác minh – mở ra khả năng hình thành một thị trường tín chỉ có giá trị kinh tế, qua đó huy động thêm vốn xã hội cho trồng mới, phục hồi và quản trị bền vững hệ sinh thái ven biển.
Để thị trường carbon xanh thực sự vận hành, điều kiện tiên quyết là chuẩn hóa hệ thống đo lường, báo cáo và thẩm tra phù hợp với đặc thù ngập mặn. Khác với rừng trên cạn, phần đáng kể carbon của rừng ngập mặn nằm dưới mặt bùn, tích lũy trong điều kiện thiếu oxy nên thời gian lưu giữ kéo dài. Vì vậy, phương pháp kỹ thuật cần phản ánh đồng thời sinh khối trên mặt đất, dưới mặt đất, bồi tụ trầm tích và biến động đường bờ. Một đường cơ sở đáng tin cậy về mất rừng, xói lở và can thiệp quản lý trong quá khứ là chìa khóa để xác định lượng hấp thụ “bổ sung” so với kịch bản không làm gì. Khi phương pháp được chuẩn hóa, minh bạch và có kiểm định độc lập, tín chỉ hình thành từ dự án sẽ có giá trị đối với doanh nghiệp trong chuỗi cung ứng toàn cầu đang phải cắt giảm phát thải.
Cùng với kỹ thuật, khung thể chế phải làm rõ quyền sở hữu và hạch toán carbon để tránh tính trùng. Khi quốc gia đặt mục tiêu phát thải ròng bằng không, phần hấp thụ từ rừng tự nhiên có thể đã được tính vào đóng góp quốc gia. Nếu một dự án đồng thời bán tín chỉ cho cùng phần hấp thụ ấy, sẽ nảy sinh chồng lấn. Cách tiếp cận hợp lý là quy định rành mạch phạm vi, quyền sử dụng lượng hấp thụ bổ sung, cơ chế bù trừ giữa mục tiêu quốc gia và tín chỉ tự nguyện, đồng thời hướng dẫn cụ thể về quyền lợi – nghĩa vụ giữa chủ rừng, cộng đồng nhận khoán, nhà đầu tư và cơ quan quản lý. Sự rõ ràng này giúp bảo toàn lợi ích công cộng của rừng nhưng vẫn khuyến khích dòng vốn tư nhân tham gia.
Một thị trường chỉ bền khi tạo lợi ích thực chất cho người giữ rừng. Tại các vùng tôm – rừng, cua – rừng, mô hình sinh kế dựa vào tự nhiên đã chứng minh sự ổn định nếu duy trì tỷ lệ che phủ phù hợp và quản lý chất lượng nước tốt. Khi có thêm dòng thu từ tín chỉ carbon xanh, cơ chế chia sẻ lợi ích cần ưu tiên cộng đồng: phần lớn doanh thu ròng nên quay lại hộ dân, hợp tác xã và ban quản lý để tái đầu tư khoanh nuôi, tuần tra, trồng dặm và quan trắc định kỳ. Việc phân bổ minh bạch, có sổ tay hướng dẫn dễ hiểu, có sự giám sát của chính quyền và cộng đồng sẽ gia tăng niềm tin, giảm động cơ lấn chiếm, chặt phá, đồng thời hạ chi phí cưỡng chế, bảo vệ.
Kinh nghiệm thực địa cho thấy phục hồi rừng ngập mặn muốn hiệu quả phải xử lý đúng động lực bờ biển. Trồng đồng loạt mà không giải quyết thiếu bùn cát hoặc sóng phá bờ sẽ khiến cây non dễ tổn thất. Cách làm hiệu quả là khuyến khích tự phục hồi: thiết kế can thiệp tối thiểu để giữ phù sa, làm dịu sóng bằng các cấu kiện nhẹ ở mức cần thiết, sau đó khoanh nuôi để đước, mắm, bần tự tái sinh; chỉ trồng dặm ở những khoảng trống đã ổn định thủy thổ. Ở các đầm phá miền Trung, kết hợp vành đai sú, vẹt với dải cỏ biển không chỉ tăng tích lũy carbon dưới đáy mà còn cải thiện bãi đẻ, bãi ẩn cho thủy sinh, tạo điều kiện phát triển du lịch sinh thái cộng đồng. Những mô hình này, nếu được đo đạc bài bản, có thể tạo ra dòng thu kép: vừa từ tín chỉ carbon, vừa từ dịch vụ hệ sinh thái.
Nhu cầu mua tín chỉ trên thị trường tự nguyện có xu hướng tăng khi doanh nghiệp xuất khẩu phải đáp ứng yêu cầu phát thải thấp của đối tác. Tuy nhiên, tín chỉ không thể thay thế biện pháp giảm phát thải tại chỗ. Các tiêu chí mua ngày càng khắt khe về tính bổ sung, tính bền vững, đồng lợi ích xã hội và toàn vẹn môi trường. Vì vậy, ngay từ thiết kế, mỗi dự án cần công bố kế hoạch quản trị rủi ro rò rỉ phát thải, cơ chế giám sát dài hạn, lộ trình tài chính đảm bảo duy trì rừng sau thời hạn tín chỉ. Cơ quan quản lý có thể hỗ trợ bằng danh mục dự án sẵn sàng theo vùng bờ ưu tiên, kèm bộ dữ liệu nền để rút ngắn thời gian chuẩn bị, đồng thời thí điểm cơ chế bảo lãnh kết quả ở giai đoạn đầu nhằm hút vốn đầu tư.
Tài chính ban đầu luôn là nút thắt, nhất là chi phí lập đường cơ sở, đo đạc, đăng ký tiêu chuẩn, trồng dặm và đầu tư thiết bị quan trắc. Nguồn lực hạt giống có thể đến từ quỹ khí hậu, các tổ chức tài chính phát triển, ngân hàng chính sách và các chương trình chi trả dịch vụ môi trường rừng hiện hành. Khi dự án bắt đầu phát hành tín chỉ, dòng tiền này sẽ dần thay thế vốn mồi, giúp giảm gánh nặng ngân sách địa phương. Bên cạnh tín chỉ, việc gắn carbon xanh với sản phẩm – dịch vụ địa phương như tôm sinh thái, du lịch xuyên rừng, sản phẩm OCOP xanh sẽ nâng giá trị, giúp dự án ít phụ thuộc biến động thị trường tín chỉ.
Cuối cùng, để thị trường carbon xanh đi vào thực chất, cần một hệ sinh thái chính sách đồng bộ: quy hoạch không gian ven biển ưu tiên hành lang rừng đi trước công trình kè cứng; bộ phương pháp đo đếm đặc thù ngập mặn được công nhận; quy định rõ về hạch toán và tránh tính trùng; cơ chế chia sẻ lợi ích bảo đảm phần lớn doanh thu trở lại cộng đồng; danh mục dự án sẵn sàng để huy động vốn; cùng tiêu chí khuyến khích các dự án có đồng lợi ích sinh kế và đa dạng sinh học. Khi những mảnh ghép này khớp lại, dải rừng ngập mặn Việt Nam không chỉ giữ bờ trước sóng gió mà còn trở thành tài sản kinh tế sinh lợi, tạo dòng tiền xanh bền vững cho cộng đồng ven biển và đóng góp thực chất vào mục tiêu Net Zero.