Kiêm chức, bớt quan
Việc các quan chức kiêm nhiệm đã có từ lâu. Thời phong kiến, việc kiêm nhiệm giúp những vị quan có tài có thể phát huy được sở trường của mình, đồng thời giúp triều đình giảm bớt số lượng quan chức.
Từ đầu thời Lê, đã có việc các quan lớn xuất thân từ văn học kiêm giữ nhiều chức. Như vị Ngự sử nổi tiếng cương trực Bùi Cầm Hồ đời Lê Thái Tông được cử kiêm chức Đồng tri Tây đạo. Vị bảng nhãn khai khoa thời Lê sơ là Nguyễn Trực, theo sách "Nhân vật chí" trong bộ "Lịch triều hiến chương loại chí" của Phan Huy Chú, ông vừa giữ chức Trực học sĩ Viện Hàn lâm bên văn, vừa kiêm chức Kỵ úy bên võ của triều đình.
Từ thời Lê Thánh Tông, triều đình chia làm lục bộ, đã có việc các quan được phân công kiêm quản cả 2 bộ. Ngoài ra, các quan kiêm giữ 1 bộ và 1 cơ quan khác, như Hàn lâm Viện, Quốc Tử Giám, các cơ quan "tự", "quán" của triều đình... Trước thời Lê Thánh Tông, vị Đại hành khiển (Tể tướng) thời Lê Thái Tông là Đào Công Soạn dù già lão xin về hưu vẫn được nhà vua giao kiêm coi việc 3 quán (tức Nho lâm Quán, Sùng văn Quán và Tú lâm Cục, là những cơ quan đào tạo con cháu các quan trong triều làm nhân tài kế cận).

Tranh thờ Trạng nguyên Lương Thế Vinh. Khi làm việc ở Hàn lâm Viện, Trạng nguyên được cử kiêm cả Quán Sùng văn và Cục Tú lâm.
Trạng nguyên Lương Thế Vinh khi làm ở Hàn lâm Viện được cử kiêm cả Quán Sùng văn và Cục Tú lâm. Bảng nhãn Nguyễn Như Đổ cũng được Vua Lê Thánh Tông giao làm Thượng thư Bộ Lại, kiêm Tế tửu (như hiệu trưởng) Quốc Tử Giám.
Truyền thống phân công các vị quan có văn học kiêm việc đào tạo nhân tài nối tiếp ở các triều đại sau. Như thời Lê trung hưng, đời Vua Lê Kính Tông, Hữu thị lang Bộ Lại Ngô Trí Hòa sau khi đi sứ nhà Minh về, năm 1608 được thăng chức Thượng thư Bộ Hộ, kiêm chức Tế tửu Quốc Tử Giám.
Dưới thời vua Lê - chúa Trịnh, triều đình nhà vua chỉ còn là hư danh, nên dù có đủ lục bộ thì công việc của các bộ rất ít, chủ yếu do phủ chúa và lục phiên quyết định. Dù vậy, thì chức vị thượng thư vẫn còn danh giá, chúa Trịnh thường dùng chức này phong cho các quan đầu triều, nhưng cũng vì vậy, nhiều vị được phong làm thượng thư bộ này kiêm luôn bộ khác.
Như Tiến sĩ Nguyễn Đức Vĩ, đời Lê Dụ Tông, được chúa Trịnh Giang cho làm Bồi tụng (Phó Tể tướng trong phủ chúa), còn trong triều đình Vua Lê giữ chức Thượng thư Bộ Công, nhưng cũng kiêm việc Bộ Lại và kiêm cả Tế tửu Quốc Tử Giám. Hay, Nguyễn Nghiễm, thân phụ đại thi hào Nguyễn Du, trong phủ chúa giữ chức Tham tụng, nhưng ở triều vẫn kiêm chức Thượng thư Bộ Công và trực tiếp coi một đội quân là đội Nghiệm hữu, thuộc vệ binh Thị hậu. Ngoài ra, ông còn kiêm chức Trung thư giám ở Quốc Tử Giám và cả Đông Các (dạy Thái tử học) cùng chức Tổng tài Quốc Sử Quán.
Truyền thống cử các quan kiêm việc Quốc Tử Giám, Quốc Sử Quán nối tiếp sang thời Nguyễn. Đọc bản tấu dâng sách "Đại Nam thực lục" lên Vua Tự Đức (năm 1848), có thể thấy ông Trương Đăng Quế giữ chức Tổng tài Sử Quán, Đại học sĩ điện Cần Chính lãnh Binh Bộ Thượng thư sung Cơ mật Viện đại thần, kiêm lý Khâm Thiên Giám, kiêm lãnh Quốc Tử Giám sự vụ. Ông Vũ Xuân Cẩn cũng giữ chức Ngự tiền đại thần Thái tử Thái bảo Đông Các đại học sĩ, quản lý Lại Bộ sự vụ kiêm quản Quốc Tử Giám sự vụ, kiêm quân Tào chính ấn vụ...
Về ngạch võ, việc các võ tướng kiêm cai quản nhiều đơn vị quân đội cũng không thiếu. Như đọc sử triều Nguyễn, thời vua Lê - chúa Trịnh, hầu như năm nào cũng thấy có các vị tướng quản vệ này kiêm các vệ khác, hay kiêm coi các thuyền, các đội.
Đôi khi, để phù hợp thực tế chiến trường, triều đình sai các quan kiêm việc trấn thủ các địa phương để tiện xử lý công việc. Như trong chiến dịch đánh vào Đàng Trong năm 1723, chúa Trịnh Cương sai tướng là Tham lãnh Nguyễn Minh Châu làm Trấn thủ Nghệ An, kiêm trấn châu Bắc Bố Chính.
Ở Đàng Trong, những năm thế kỷ XVIII, chúa Nguyễn chưa lập triều đình, lục bộ, nhưng cũng đã đặt các quan quản các bộ để điều hành. Thời chúa Vũ vương Nguyễn Phúc Khoát, những năm 1740, chúa lấy Nguyễn Đăng Thịnh làm Lễ Bộ kiêm Lại Bộ, Lê Quang Đại làm Hộ Bộ kiêm Binh Bộ. Sau khi Lê Quang Đại qua đời năm 1745, đến cuối năm 1749, chúa Vũ lại lấy Nguyễn Thừa Tự làm Hộ Bộ kiêm Binh Bộ. Năm 1754, Tri bạ Trần Đình Hý cũng được chúa Vũ bổ làm Hộ Bộ kiêm Binh Bộ.
Cuối đời chúa Vũ, năm 1765, thầy của thế tử là Thị giảng Nguyễn Hữu Tôn được cử làm Binh Bộ, vẫn kiêm chức Thị giảng. Sang năm 1767, thời chúa Định Nguyễn Phúc Thuần, Nguyễn Hữu Tôn từ Binh Bộ được chuyển sang làm Lại Bộ, coi việc Kinh diên (dạy các con chúa Định), sau lại sai kiêm Hình Bộ, cai quản việc vận tải.
Năm 1790, chúa Nguyễn Ánh ở Gia Định mới đặt Thái y Viện, sai thuộc nội cai đội Nguyễn Thận kiêm quản. Từ năm 1795, vị chúa trẻ này quan tâm đến việc đào tạo nhân tài, đã sai Tham mưu Trung dinh Nguyễn Thái Nguyên làm Lễ Bộ kiêm việc Đốc học. Chúa sai Nguyễn Thái Nguyên kén trong học trò thi năm ấy những người trúng vào hạng tạm để lại văn chương dùng được là 12 người bổ làm tham luận các chi vệ dinh Hậu quân.
Theo "Đại Nam thực lục", Lễ Bộ kiêm Đốc học Nguyễn Thái Nguyên là người thanh liêm, chính trực, nhưng tính thích rượu. Chúa Nguyễn Ánh thường khiển trách điều ấy, Thái Nguyên xin chừa uống, rồi lại vi phạm. Chúa nghĩ ông là người có công và già cả, không nỡ xa bỏ, đặc cách cho nghỉ việc bộ nhưng được lấy nguyên hàm kiêm việc Đốc học.
Khi chúa Nguyễn Ánh lên ngôi, tức Vua Gia Long, cho lập Quốc Tử Giám ở kinh đô Phú Xuân, đã lấy Hữu tham tri Lại Bộ Đoàn Trọng Viễn kiêm Phó Đốc học Quốc Tử Giám. Sau khi thống nhất đất nước, Vua Gia Long cho đặt chức Đốc học ở các trấn Bắc Thành, có lẽ số Đốc học còn chưa tìm đủ, đã bổ Đốc học Kinh Bắc kiêm Đốc học Thái Nguyên, Lạng Sơn, Cao Bằng; Đốc học Sơn Tây kiêm Đốc học Hưng Hóa, Tuyên Quang, Đốc học Hải Dương kiêm Đốc học Yên Quảng.
Năm Gia Long thứ 11 (1812), mùa thu, tháng 7, nhà vua lấy Trịnh Hoài Đức làm Thượng thư Bộ Lễ, kiêm quản lý công việc Khâm Thiên Giám.
Có khi những vị quan kiêm quản công việc không hoàn thành trách nhiệm thì sẽ được giảm bớt gánh nặng. Như trường hợp Thiêm sự Bộ Hộ bộ là Nguyễn Công Tiệp kiêm quản Nội đồ gia, nhưng Vua Gia Long có chỉ dụ rằng: "Công việc Bộ Hộ có nhiều, Công Tiệp làm một mình ngày còn không rảnh, sao có thể kiêm coi cả việc Nhà đồ nữa?". Sau đó vua sai viên Thiêm sự Bộ Hộ khác là Nguyễn Công Vị chuyên quản công việc Nội đồ gia.
Hoặc, có khi, có những vị trí cần phải có vị quan đủ uy tín nắm giữ, triều đình cũng dùng cách cho kiêm nhiệm. Đó là trường hợp năm Minh Mạng thứ nhất (1820), vua sai Thống chế Tôn Thất Dịch kiêm quản đội Giám thành. Vua nói: "Trong kinh thành nhiều người quyền thế quan trọng, mà quản giám thành thì phẩm trật thấp, sợ không kiềm chế được, mới sai Dịch kiêm quản".
Tôn Thất Dịch họ hàng nhà vua, là công thần Vọng Các, từng theo phò chúa Nguyễn Ánh ở Bangkok, Thái Lan, rồi cùng về Gia Định với chúa năm Đinh Mùi (1787), được cho làm Cai đội (1799), thăng Vệ úy Vệ Tể Vũ (1801). Sau khi Vua Gia Long lên ngôi, ông lần lượt được thăng các chức Vệ úy, Thị nội Thống chế (1816) rồi Thị trung Tả Thống chế (1818). Nhà vua phải sử dụng ông nắm đội Giám thành để giữ gìn trật tự trong kinh thành, áp chế các quan lại vi phạm luật lệ.
Hoặc, sau đó, vào năm Minh Mạng thứ 6 (1825), nhà vua cũng sai Đề đốc kinh thành là Đoàn Văn Trường kiêm quản Vệ Giám thành. Phó Đô Thống chế Hữu dinh quân Thần sách Tôn Thất Bính cũng được vua sai kiêm quản vệ Nội hầu. Nhà vua dụ rằng: "Thân binh cậy thế trái phép, người quản lãnh phần nhiều không hay ngăn giữ, ngươi nên nghiêm bảo đe nạt, nhất thiết lấy quân pháp mà trị, khiến cho đổi tệ trước đi".
Việc các quan cầm đầu các bộ kiêm quản bộ khác tiếp tục được áp dụng dưới thời Vua Minh Mạng, như vào năm Minh Mạng thứ 4 (1823), vua sai Thượng thư Hộ Bộ là Nguyễn Hữu Thận kiêm quản Hình Bộ, Tham tri Lại Bộ là Nguyễn Văn Hưng kiêm lĩnh Tào chính, Tham tri Công Bộ là Trần Văn Tính quyền lý công việc Nội vụ phủ. Hoặc, năm Minh Mạng thứ 6 (1825), Thượng thư Hình Bộ là Nguyễn Khoa Minh kiêm quản việc Binh Bộ, thự Trung quân Tống Phước Long kiêm quản ty Thương bạc, cơ quan lo việc ngoại giao, ngoại thương với nước ngoài.
Cũng có trường hợp, việc sai kiêm quản một chức vụ là một ân điển của nhà vua cho bề tôi. Như khi Vua Minh Mạng sai Phó tướng Nguyễn Văn Xuân kiêm quản Thương bạc, Văn Xuân dâng biểu xin từ, vua dụ rằng: "Ngươi liền năm coi việc biên giới, nhiều công khó nhọc, nên sai kiêm quản nha ấy, đó là triều đình thù lao, thưởng công để khuyến khích tôi con. Vả lại, việc Thương bạc có đủ nhân viên làm việc, ngươi tuy tuổi già, vẫn nên trong sạch, công bằng mà chủ trương khiến chúng không được sinh tệ là được rồi. Nếu có lỗi nhỏ, trẫm cũng không trách, chớ từ".
Một số vị trí nữa cũng thường được các vua triều Nguyễn giao cho người nội tộc kiêm nhiệm, là các chức liên quan đến thờ tự, tế lễ các đền, miếu tổ tiên nhà vua. Như ở Thanh Hóa, phủ Hà Trung là quê hương các vua Nguyễn, Vua Minh Mạng sai lấy viên quan trong dòng Tôn Thất là Tôn Thất Bằng làm Từ tế sứ Từ tế ty kiêm quản các chi công tính (họ xa của nhà vua xuất thân từ làng Miêu Gia Ngoại, phủ Hà Trung), vẫn lãnh Quản phủ Hà Trung. Truyền thống này được được các vua nhà Nguyễn duy trì cho đến tận khi nhà Nguyễn kết thúc.
Nguồn ANTG: https://antgct.cand.com.vn/khoa-hoc-van-minh/kiem-chuc-bot-quan-i760177/