Kiểm soát không để rau 'bẩn' vào trường học, siêu thị
Hiện Hà Nội đã triển khai hệ thống truy xuất nguồn gốc với hơn 3.000 doanh nghiệp và khoảng 11.000 sản phẩm được đưa lên hệ thống.
Chiều 24/9, Báo Nông thôn Ngày nay/Dân Việt tổ chức tọa đàm trực tuyến với chủ đề “Bịt lỗ hổng rau bẩn vào trường học, siêu thị”, sau loạt bài điều tra phản ánh tình trạng phù phép rau trôi nổi thành rau "an toàn" để đưa vào bếp ăn trường học và siêu thị. Tọa đàm thu hút sự quan tâm của nhiều chuyên gia, nhà quản lý và đại diện các hợp tác xã sản xuất rau an toàn tại Hà Nội.

Quang cảnh tọa đàm. Ảnh: Bích Hồng/Bnews/vnanet.vn
Tại buổi tọa đàm, ông Nguyễn Thành Trung – Phó Trưởng phòng Chất lượng và Phát triển Thị trường (Sở Nông nghiệp và Môi trường Hà Nội) cho biết: Ngành nông nghiệp Hà Nội những năm qua đã có nhiều chỉ đạo quyết liệt nhằm kiểm soát an toàn thực phẩm. Hiện Hà Nội đã triển khai hệ thống truy xuất nguồn gốc với hơn 3.000 doanh nghiệp và khoảng 11.000 sản phẩm được đưa lên hệ thống.
Tuy nhiên, ông Trung cũng thẳng thắn thừa nhận, việc truy xuất hiện vẫn chủ yếu ở mức độ tĩnh, tức là chỉ ghi chép thông tin và dán tem mã QR ở khâu đầu, chưa cập nhật thường xuyên theo lô hàng. "Để làm được truy xuất động, cập nhật hằng ngày, thì cần hạ tầng công nghệ và phần mềm phù hợp, điều mà các cơ sở sản xuất nhỏ lẻ hiện còn rất thiếu", ông Trung nói.
Đồng tình với quan điểm trên, ông Tạ Văn Tường, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường Hà Nội cho rằng, để bảo đảm chất lượng rau an toàn trên địa bàn, thành phố đã dành sự quan tâm lớn cho việc quy hoạch và kiểm soát vùng sản xuất.
Hà Nội hiện đáp ứng khoảng 60% nhu cầu tiêu dùng rau củ. Hà Nội chỉ hơn 400 ha đạt tiêu chuẩn VietGAP – con số còn khiêm tốn so với nhu cầu thực tế. “Việc tổ chức sản xuất nhỏ lẻ, manh mún, thiếu pháp nhân đang là nút thắt lớn nhất”, ông Tường nêu rõ.
Theo ông Tường, giải pháp bền vững là thúc đẩy phát triển hợp tác xã, doanh nghiệp có đủ tư cách pháp lý để hình thành chuỗi giá trị – từ sản xuất, sơ chế đến tiêu thụ. Khi sản xuất gắn với thương hiệu và trách nhiệm pháp lý, các chủ thể trong chuỗi sẽ tự động quan tâm đến chất lượng, truy xuất nguồn gốc và giảm thiểu rủi ro.
Ở góc độ người sản xuất, ông Nguyễn Tuấn Hồng, đại diện Hợp tác xã Sản xuất và Tiêu thụ Rau an toàn Bắc Hồng cho biết, sản xuất rau đạt tiêu chuẩn VietGAP rất vất vả, đặc biệt là yêu cầu về ghi chép nhật ký sản xuất.
Nhiều nông dân ngại ghi chép và để quản lý hiệu quả, hợp tác xã phải tổ chức nhóm 10 hộ quản lý chéo để thực hiện. Ông Hồng cũng chỉ ra bất cập lớn trong khâu tiêu thụ là để vào được trường học hay khu công nghiệp, hầu hết phải qua trung gian vì hợp tác xã không có mối quan hệ trực tiếp.

Ông Tạ Văn Tường, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường Hà Nội thông tin tại tọa đàm. Ảnh: Bích Hồng/Bnews/vnanet.vn
Từ kinh nghiệm thực tiễn, ông Hoàng Văn Thám, đại diện Hợp tác xã Rau quả sạch Chúc Sơn chia sẻ, hợp tác xã từng tiên phong áp dụng tem truy xuất theo công nghệ Nhật Bản, cập nhật dữ liệu hằng ngày. Tuy nhiên, do chi phí cao khiến giá thành đội lên, sản phẩm khó cạnh tranh nên đơn vị buộc phải dừng hợp tác với siêu thị. “Chúng tôi vẫn duy trì cung cấp cho một số trường quốc tế theo hợp đồng cả năm, còn với trường công lập thì chủ yếu là ký ngắn hạn”, ông Thám nói.
Ông Thám nhấn mạnh: Để truy xuất thực sự hiệu quả, cần có sự thay đổi nhận thức của tất cả các bên trong chuỗi cung ứng. Các trường nên công khai thực đơn để bên sản xuất chủ động chuẩn bị. Đồng thời, Nhà nước cần xây dựng bộ tiêu chí minh bạch cho toàn hệ thống và phát triển phần mềm giám sát truy xuất chung, tránh tình trạng mỗi nơi làm một kiểu.
Về phía cơ quan chứng nhận, bà Đặng Thị Hương, Giám đốc Thương hiệu Công ty cổ phần Chứng nhận và Giám định Vinacert cho biết, hiện nay phần lớn tiêu chuẩn an toàn thực phẩm trong nông nghiệp là tiêu chuẩn tự nguyện (TCVN), không bắt buộc như quy chuẩn (QCVN). Vì thế, có độ “lệch” giữa kỳ vọng của xã hội và thực tế quản lý. “Giấy chứng nhận chỉ có giá trị tại thời điểm cấp, không thể đảm bảo chất lượng sản phẩm trong suốt chu trình lưu thông”, bà Hương nhấn mạnh.
Theo bà Hương, trách nhiệm chính thuộc về doanh nghiệp, người sản xuất. Các tổ chức chứng nhận, cơ quan quản lý hay người tiêu dùng chỉ là lực lượng giám sát. Do đó, điều quan trọng là phải tăng cường đào tạo, tập huấn, hướng dẫn để người sản xuất và người sử dụng hiểu rõ cách nhận diện, truy xuất và giám sát sản phẩm. “Ý thức của doanh nghiệp và nông dân là yếu tố then chốt để đảm bảo an toàn thực phẩm”, bà Hương nhấn mạnh.
Nguồn Bnews: https://bnews.vn/kiem-soat-khong-de-rau-ban-vao-truong-hoc-sieu-thi/388829.html