Kinh nghiệm kiểm toán quản lý chất thải rắn đô thị của Ấn Độ - Bài học cho Việt Nam

Với tốc độ đô thị hóa nhanh chóng, lượng chất thải phát sinh ngày càng gia tăng, gây áp lực lên hệ thống xử lý hiện tại, do đó, quản lý chất thải rắn đô thị đang trở thành một trong những thách thức lớn đối với sự phát triển bền vững tại Việt Nam. Học hỏi kinh nghiệm quốc tế, đặc biệt từ các quốc gia có điều kiện tương đồng, là hướng đi quan trọng giúp Việt Nam nâng cao hiệu quả quản lý chất thải. Trong bối cảnh đó, kinh nghiệm kiểm toán quản lý chất thải rắn đô thị từ Kiểm toán nhà nước (KTNN) Ấn Độ mang đến nhiều bài học quý giá.

Ấn Độ đang phải đối mặt với nhiều vấn đề trong quản lý chất thải rắn. Ảnh: ST

Ấn Độ đang phải đối mặt với nhiều vấn đề trong quản lý chất thải rắn. Ảnh: ST

Nhiều hạn chế trong hệ thống quản lý chất thải tại Ấn Độ

Là quốc gia có dân số đông và tốc độ đô thị hóa nhanh, tương tự như Việt Nam, Ấn Độ đang phải đối mặt với nhiều vấn đề trong quản lý chất thải rắn.

Các thống kê cho thấy, khu vực đô thị Ấn Độ phát sinh từ 130.000 - 150.000 tấn chất thải rắn mỗi ngày. Con số này tiếp tục tăng qua từng năm. Trong đó, khoảng 60% chất thải được thu gom, nhưng chỉ 20% được xử lý đúng cách, phần lớn còn lại bị chôn lấp hoặc thải ra môi trường, gây ô nhiễm đất, nước và không khí.

Thời gian qua, KTNN Ấn Độ đã thực hiện nhiều cuộc kiểm toán hoạt động để đánh giá hiệu quả quản lý chất thải rắn đô thị. Các cuộc kiểm toán của KTNN Ấn Độ chỉ ra nhiều hạn chế trong hệ thống quản lý chất thải, bao gồm thiếu quy hoạch tổng thể, tỷ lệ phân loại chất thải tại nguồn còn thấp, cơ sở hạ tầng xử lý chất thải chưa đáp ứng nhu cầu và nhận thức cộng đồng về quản lý chất thải còn hạn chế. Ngoài ra, việc thực thi các chính sách môi trường còn lỏng lẻo, dẫn đến việc nhiều địa phương không tuân thủ các quy định về bảo vệ môi trường, làm trầm trọng thêm tình trạng ô nhiễm đô thị.

Đơn cử như, tại Kerala vào năm 2022, chính quyền địa phương chậm trễ trong xây dựng chính sách, dẫn đến tình trạng xử lý rác thải không đồng bộ. Mặc dù đã có các quy định cấm túi nilon, nhưng việc thực thi chưa hiệu quả. Bên cạnh đó, hệ thống thu gom rác không được đầu tư bài bản, dẫn đến tình trạng rác thải bị bỏ lại tại nhiều khu vực công cộng. KTNN Ấn Độ kiến nghị đẩy mạnh quy hoạch, kiểm soát chặt chẽ việc sử dụng túi nilon và nâng cao hiệu quả thu gom, tái chế.

Trong khi đó, cuộc kiểm toán tại Manipur năm 2019 cho thấy: việc thiếu ngân sách dành riêng cho quản lý chất thải rắn đã dẫn đến hiệu quả kém. Chất thải nguy hại chưa được xử lý đúng cách, gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, đặc biệt là tại các khu vực gần sông hồ, làm ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng nước sinh hoạt của người dân. KTNN Ấn Độ đề xuất tăng cường đầu tư hạ tầng và cải thiện cơ chế quản lý để đảm bảo tính bền vững.

Một bãi rác đầy chai nhựa tại Ấn Độ. Ảnh: Business Standard

Một bãi rác đầy chai nhựa tại Ấn Độ. Ảnh: Business Standard

Cuộc kiểm toán tại Karnataka năm 2018 đã phát hiện việc tuyên truyền về phân loại rác chưa hiệu quả, phương tiện thu gom không đảm bảo tiêu chuẩn, khiến tình trạng ô nhiễm môi trường gia tăng. Ngoài ra, một số cơ sở xử lý chất thải không tuân thủ các tiêu chuẩn về môi trường, dẫn đến phát sinh khí thải độc hại và làm ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng. KTNN Ấn Độ nhấn mạnh sự cần thiết phải nâng cao nhận thức cộng đồng, cải thiện phương tiện thu gom và đảm bảo tuân thủ các quy định về môi trường.

Những bài học cho Việt Nam

Thông qua kết quả kiểm toán của KTNN Ấn Độ, Việt Nam có thể rút ra nhiều bài học quan trọng trong công tác kiểm toán và quản lý chất thải rắn đô thị. Theo đó, cần tăng cường kiểm toán hoạt động để đánh giá toàn diện hệ thống quản lý chất thải rắn, từ thu gom, vận chuyển, xử lý đến giám sát và quản lý. Việc kiểm toán không chỉ tập trung vào vấn đề tài chính mà còn đánh giá tính kinh tế, hiệu lực và hiệu quả của các chương trình quản lý chất thải rắn. Bên cạnh đó, Việt Nam cần chú trọng đến tính minh bạch và trách nhiệm giải trình trong quản lý chất thải, bao gồm giám sát quy trình đấu thầu, quản lý tài chính và công khai thông tin liên quan. Điều này giúp ngăn chặn thất thoát ngân sách và nâng cao hiệu quả thực hiện các chương trình quản lý chất thải.

Thứ hai, cần đầu tư vào hạ tầng xử lý chất thải và nâng cao nhận thức. Một vấn đề quan trọng khác là đầu tư vào cơ sở hạ tầng xử lý chất thải hiện đại, bao gồm xây dựng các nhà máy xử lý rác thải tiên tiến như nhà máy đốt rác phát điện, nhà máy tái chế chất thải, đồng thời cải thiện hệ thống bãi chôn lấp hợp vệ sinh. Việc khuyến khích doanh nghiệp tham gia đầu tư vào lĩnh vực này là điều cần thiết để đảm bảo hệ thống xử lý chất thải có thể vận hành bền vững và hiệu quả. Bên cạnh đó, truyền thông và giáo dục cộng đồng cũng đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao nhận thức về phân loại rác tại nguồn. Các chương trình tuyên truyền cần tập trung vào việc thay đổi hành vi của người dân, khuyến khích họ tham gia vào các hoạt động bảo vệ môi trường thông qua phân loại rác, tái chế và giảm thiểu rác thải nhựa.

Thứ ba, học hỏi mô hình quản lý chất thải từ các nước phát triển. Ngoài việc học hỏi kinh nghiệm từ Ấn Độ, Việt Nam cũng có thể tham khảo các mô hình quản lý chất thải hiệu quả từ các quốc gia phát triển như Singapore và Nhật Bản. Singapore là một trong những quốc gia có hệ thống quản lý chất thải tiên tiến với việc áp dụng công nghệ hiện đại và chính sách khuyến khích phân loại rác hiệu quả. Nhật Bản, với hệ thống quản lý rác thải chặt chẽ và quy định nghiêm ngặt về phân loại, tái chế, cũng là mô hình đáng để Việt Nam học tập.

Quản lý chất thải rắn đô thị là một vấn đề phức tạp, đòi hỏi sự phối hợp của nhiều bên liên quan, từ cơ quan nhà nước, doanh nghiệp đến cộng đồng. Kinh nghiệm từ KTNN Ấn Độ cho thấy vai trò quan trọng của kiểm toán trong việc giám sát và cải thiện hiệu quả quản lý chất thải. Bằng cách tăng cường kiểm toán, áp dụng các giải pháp sáng tạo và học hỏi kinh nghiệm quốc tế, Việt Nam có thể hướng tới một hệ thống quản lý chất thải hiệu quả, góp phần bảo vệ môi trường và phát triển bền vững./.

VỤ HỢP TÁC QUỐC TẾ

Nguồn Kiểm Toán: http://baokiemtoan.vn/kinh-nghiem-kiem-toan-quan-ly-chat-thai-ran-do-thi-cua-an-do-bai-hoc-cho-viet-nam-38483.html