Kinh tế tư nhân: Góc nhìn từ nền kinh tế không rào cản - Bài 2: Bài toán giảm ma sát hay tăng lực đẩy
Sự nhạy bén với thời cuộc, khả năng tạo nên phản ứng dây chuyền để 'cơ hội đẻ cơ hội, đầu tư gọi đầu tư' là bản chất của kinh tế tư nhân. Nhưng điều này liệu đã đủ với một nền kinh tế đang cần động lực để nâng tầm quỹ đạo phát triển.
Lịch sử phát triển kinh tế của Việt Nam trong hàng chục năm qua đã chứng minh một điều quan trọng rằng, sự lớn mạnh của khu vực kinh tế tư nhân phụ thuộc lớn vào những cải cách về thể chế, những nỗ lực tháo gỡ các rào cản đối với hoạt động kinh doanh…
Hiện tại cũng vậy, khu vực kinh tế tư nhân sinh trưởng khỏe mạnh, bứt phá mạnh mẽ đang cần một Nhà nước với thể chế phù hợp, chính sách đúng đắn và môi trường kinh doanh không rào cản.

Khu vực kinh tế tư nhân đã chính thức sang nhịp phát triển mới sau khi lãnh đạo cao nhất của Đảng khẳng định, kinh tế tư nhân là động lực quan trọng nhất của phát triển. Ảnh: Đức Thanh
Bài 2: Bài toán giảm ma sát hay tăng lực đẩy
Sự nhạy bén với thời cuộc, khả năng tạo nên phản ứng dây chuyền để “cơ hội đẻ cơ hội, đầu tư gọi đầu tư” là bản chất của kinh tế tư nhân. Nhưng điều này liệu đã đủ với một nền kinh tế đang cần động lực để nâng tầm quỹ đạo phát triển.
Những câu hỏi nhức nhối
Có phải các doanh nghiệp có thể tồn tại, nhưng lại khó phát triển tối đa; có thể nắm bắt cơ hội, nhưng không dám vượt qua thách thức, không dám chấp nhận rủi ro để có được sự phát triển vượt bậc? GS-TS. Vũ Minh Khương, giảng viên Trường Chính sách công Lý Quang Diệu (Đại học Quốc gia Singapore) không ngần ngại đặt các vấn đề trực diện khi bàn về những giải pháp phát triển kinh tế tư nhân Việt Nam.
Theo GS-TS. Khương, 35 ngành nghề kinh tế mà ông đang khảo sát đều cho thấy những “chốt hãm”. “Có những quy định rất lạ, không thể làm doanh nghiệp tối đa hiệu quả; có những mối quan tâm chỉ là đúng thủ tục hay không, chứ không phải là có lợi cho doanh nghiệp, cho kinh tế hay không. Vậy nên, chi phí logistics mà các doanh nghiệp ở TP.HCM phải chịu tới 25%, trong khi ở Thái Lan chỉ là 12%...”, GS-TS. Khương làm rõ nhận định.
Song đây không phải là những điều quá lạ với các doanh nghiệp. Thậm chí, với ông Đậu Anh Tuấn, Phó tổng thư ký, Trưởng ban Pháp chế Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) - đầu mối tiếp nhận các ý kiến, kiến nghị, khó khăn, vướng mắc trong hoạt động sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp, không quá khó để tập hợp nhanh các “quy định lạ”.
Chẳng hạn, quy chuẩn của Việt Nam có yêu cầu cao hơn cả quy chuẩn của những nước phát triển, như quy chuẩn về chất ô nhiễm trong thực phẩm bảo vệ sức khỏe; quy chuẩn có chi phí tuân thủ rất cao, vượt quá khả năng của nhiều doanh nghiệp; hay có những quy định ban hành xong, đến thời điểm áp dụng rồi mà chưa đủ điều kiện thực hiện, khiến các doanh nghiệp không biết phải thực hiện thế nào, hàng hóa tắc nghẽn…
“Nguyên nhân vẫn là cơ chế quản lý nặng cơ chế tiền kiểm, ít liên thông thủ tục hành chính. Các văn bản pháp luật được ban hành nhiều nhưng còn chồng chéo, mâu thuẫn hoặc thiếu hướng dẫn cụ thể, khiến việc thực thi có thể thiếu nhất quán…”, ông Tuấn phân tích.
Nhưng hậu quả mà các doanh nghiệp phải gánh không chỉ là chi phí tuân thủ, chi phí cơ hội, chi phí thời gian…, mà còn là những rào cản về khát vọng lớn lên, vươn xa hơn của những người kinh doanh.
Cho đến hết năm 2024, nền kinh tế Việt Nam mới ghi nhận khoảng 56.000 doanh nghiệp quy mô vừa và lớn trong số trên 900.000 doanh nghiệp đang hoạt động. Nhiều khả năng các chỉ tiêu tham vọng được đặt ra trong Nghị quyết 10/NQ-TW khóa XII về cả số và chất với khu vực kinh tế tư nhân chưa thể đạt được…

Thời đại của những logic khác thường
Cảm giác được hô vang, được nói to, nói hết một cách tự hào về kinh tế tư nhân khiến PGS-TS. Trần Đình Thiên, nguyên Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam cảm thấy phân khích. Với ông, nút thắt lớn nhất, quan trọng nhất đã được tháo bỏ.
“Không còn những định kiến, giáo điều, những cấm kỵ về phát triển. Khu vực kinh tế tư nhân đã chính thức sang nhịp phát triển mới sau khi lãnh đạo cao nhất của Đảng khẳng định, kinh tế tư nhân là động lực quan trọng nhất của phát triển”, ông Thiên nói.
Không phải ngẫu nhiên ông Thiên nhắc đến nhịp phát triển mới của khu vực mà ông từng gọi là “vị cứu tinh” của nền kinh tế trong hành trình đổi mới gần 40 năm qua. Năm 1986, khi “kinh tế tư bản tư nhân” được sử dụng trong một số ngành, nghề (theo Văn kiện Đại hội Đảng VI), nền kinh tế hồi sinh, thoát khỏi khủng hoảng.
Đến năm 1991, Đại hội Đảng VII xác định, “kinh tế tư bản tư nhân được phát triển không hạn chế về quy mô và địa bàn hoạt động trong những ngành, nghề mà luật pháp không cấm”. Sau đó, năm 1996, tại Đại hội VIII, kinh tế tư bản tư nhân được nhìn nhận “có khả năng góp phần xây dựng đất nước”, nền kinh tế mở cửa, hội nhập một cách tự tin.
Khi Đại hội Đảng IX (năm 2001) khuyến khích phát triển kinh tế tư bản tư nhân rộng rãi trong những ngành nghề sản xuất, kinh doanh mà pháp luật không cấm và Đại hội X (năm 2006) nhấn mạnh, “xóa bỏ mọi rào cản, tạo tâm lý xã hội và môi trường kinh doanh thuận lợi cho các loại hình doanh nghiệp của tư nhân phát triển không hạn chế quy mô trong mọi ngành nghề, lĩnh vực, kể cả các lĩnh vực sản xuất kinh doanh quan trọng của nền kinh tế mà pháp luật không cấm”, khu vực doanh nghiệp bừng nở.
Phần nhiều các doanh nghiệp lớn, các thương hiệu hàng đầu và cả những tỷ phú USD của Việt Nam hiện tại bắt đầu khởi nghiệp từ giai đoạn này. “Nhưng hơn 15 năm qua, ‘đại bàng Việt’ vẫn là những doanh nghiệp đó, những doanh nhân đó, chưa có thêm những gương mặt trẻ kế cận. Trong khi đó, nhiều start-up Việt đình đám đều chọn thành lập ở nước ngoài…”, TS. Thiên trăn trở.
Vấn đề nằm ở chỗ, cũng thời điểm này, top 10 các công ty lớn nhất trong S&P 500 thay đổi vô cùng lớn. Các doanh nghiệp đình đám, thậm chí tuổi đời cả trăm năm trong bảng xếp hạng năm 2010 như GE, Exxon Mobil, Chevron, IBM đã không còn hình bóng vào năm 2024, thay vào đó là NVIDIA, Meta… với những logic phát triển khác thường.
Điều đáng nói, các doanh nghiệp, tập đoàn tư nhân hiện tại không chỉ giải quyết việc làm, đóng thuế…, mà còn tham gia giải các bài toán phát triển, xanh, số, bền vững…
“Nghĩa là, con đường đã tạo nên khu vực kinh tế tư nhân hiện tại không còn phù hợp khi cả thế giới đã lên con tàu tốc hành. Chúng ta phải nhìn thẳng vào sự thật này, để có chiến lược phát triển kinh tế tư nhân với tư duy hoàn toàn mới, không thể tuần tự, từng bước một như trước”, ông Thiên khuyến nghị.
Hơn thế, TS. Trần Đình Thiên kỳ vọng về một giai đoạn gỡ rào, tháo chốt bằng cách xóa bỏ quy định theo tư duy cũ, chứ không phải chỉnh sửa, nâng cấp…
Vai trò của Nhà nước
Sáng 21/3/2025, Hội trường tầng 7 của Tổng công ty 319 không còn cả đường đi, nhiều người phải ngồi ở dãy ghế bên ngoài cửa. Không khí của Hội thảo Nhà thầu trong nước phát huy nội lực, tham gia xây dựng Dự án Đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam sôi lên khi ông Phạm Văn Khôi, Chủ tịch HĐQT, Tổng giám đốc Công ty cổ phần Đầu tư và Xây dựng giao thông Phương Thành (Phương Thành Tranconsin) thẳng thắn đặt câu hỏi cho đại diện các cơ quan quản lý có mặt rằng, dự án này liệu có là cơ hội để hỗ trợ kinh tế tư nhân theo đúng tinh thần chỉ đạo của Tổng Bí thư Tô Lâm.
“Chúng tôi cam kết sẽ làm được, việc gì chưa làm được thì bỏ tiền đi học, đi thuê chuyên gia, chuẩn bị năng lực, tiềm lực để làm. Thậm chí, nếu phải thay cả tôi, thay cả tổng giám đốc để có năng lực mới, cũng sẽ thay”, ông Khôi khảng khái.
Ông nói, đây là khát vọng của các nhà thầu Việt Nam, những người sẵn sàng vượt nắng, thắng mưa, làm 3 ca, 4 kíp để hoàn thành tốc độ các dự án trọng điểm quốc gia, như sân bay Long Thành, đường bộ cao tốc Bắc - Nam…, cho dù bị chậm bàn giao mặt bằng, thiếu vật liệu, định mức đơn giá vật liệu, nhân công, máy móc không phù hợp…
Nhưng thời gian từ giờ đến thời điểm dự kiến tổ chức đấu thầu Dự án Đường sắt cao tốc trên trục Bắc - Nam không còn nhiều, dự kiến là khoảng quý I/2027, để kịp khởi công vào tháng 12/2027. Nếu không rõ “Nhà nước có đặt hàng không” ở cấu phần xây dựng, các nhà thầu sẽ không biết chuẩn bị thế nào. Họ lo ngại, việc sẽ rơi vào các nhà thầu quốc tế từng tham gia dự án tương tự, đang thiếu việc làm khi nhiều công trình đường sắt cao tốc trong khu vực vừa kết thúc…
Song, câu hỏi trên, chiếu theo các cơ chế, chính sách hiện hành, sẽ không thể trả lời, cũng có nghĩa, như quan điểm của GS-TS. Vũ Minh Khương, sẽ không có doanh nghiệp nào bứt phá được.
“Đây là vấn đề của nền kinh tế. Nếu nền kinh tế cần tăng tốc, cần bước sang quỹ đạo phát triển mới, trở thành quốc gia hùng cường, thì giảm ma sát là chưa đủ, mà cần tư duy yểm trợ doanh nghiệp phát triển vượt bậc”, GS-TS. Khương nhấn mạnh.
Trong tư duy này, theo GS-TS. Khương, có 4 điểm cần lưu ý từ bài học kinh nghiệm quốc tế. Đó là chuyển từ tư duy quản lý sang tầm nhìn quản trị, chuyển từ chỉ chú trọng tăng trưởng sang tiến hóa để chuyển đổi cơ cấu, công nghệ; chuyển từ chỉ coi trọng hiệu quả sang coi trọng hiệu lực và tận dụng tối đa mối quan hệ nhà nước minh bạch, thị trường mạnh mẽ.
Các quyết sách hỗ trợ, kích thích khu vực kinh tế tư nhân lúc này không chỉ là phá rào, mà cần phải dựa trên cơ sở hình dung xem năm 2030-2045 nền kinh tế Việt Nam sẽ đi đến đâu, cần lực lượng doanh nghiệp thế nào. Khi đó, không chỉ các doanh nghiệp lớn sẽ tìm được hành trình vươn tầm, mà cả doanh nghiệp nhỏ và vừa, các start-up và cả hộ kinh doanh cũng sẽ tìm cách lớn lên…
(Còn tiếp)