KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2024: TĂNG TỐC THÀNH CÔNG, TẠO ĐÀ CHO NĂM 2025 VỀ ĐÍCH

Với phương châm bản lĩnh linh hoạt, kịp thời hiệu quả, với năng lực và kinh nghiệm trong điều hành của Chính phủ cùng sự đồng hành kịp thời, hiệu quả của Quốc hội; với tinh thần chủ động, linh hoạt, sáng tạo, đương đầu với khó khăn, thách thức của cộng đồng doanh nghiệp, kinh tế Việt Nam sẽ hóa giải được những khó khăn, bất cập, phấn đấu đạt mục tiêu tăng trưởng kinh tế năm 2025 cao nhất, tạo nền tảng và gia tốc để kinh tế Việt Nam vươn mình trong kỷ nguyên mới.

Năm 2024, kinh tế Việt Nam diễn ra trong bối cảnh kinh tế thế giới dần hồi phục, thương mại toàn cầu vẫn bấp bênh, đối mặt với nhiều rủi ro, bất định. Bất ổn địa chính trị và xung đột quân sự gây ra biến động về giá xăng dầu, giá nguyên vật liệu, giá cước vận tải, kéo dài thời gian vận chuyển và giao hàng, tạo áp lực lên lạm phát, tăng trưởng toàn cầu chậm lại.

Biến đổi khí hậu, hiện tượng thời tiết cực đoan, tình hình mùa vụ không thuận tại các vùng sản xuất lương thực chủ yếu dẫn tới giá lương thực thế giới tăng liên tiếp trong nhiều tháng.

Thông tin về chỉ số Nhà quản trị mua hàng (PMI), tăng trưởng kinh tế, việc làm và lạm phát là căn cứ để Cục Dự trữ Liên bang Mỹ đã ba lần cắt giảm lãi suất, đưa lãi suất cơ bản xuống mức 4,25%- 4,5%.

Kinh tế châu Âu yếu hơn so với dự báo, lạm phát trên đà giảm mạnh, khiến Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) đã bốn lần cắt giảm lãi suất.

Kinh tế Trung Quốc năm 2024 đã chạm đáy và đang trên đà phục hồi, vẫn giữ được tốc độ tăng ở mức thấp, nhưng nền tảng phát triển chưa thật sự vững chắc.

Nhìn chung nền kinh tế toàn cầu năm 2024 chuyển hướng tích cực, lạm phát gần về mức mục tiêu, thị trường việc làm tại các nền kinh tế hàng đầu thế giới trầm lắng, ngân hàng trung ương các quốc gia cắt giảm lãi suất để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

Kinh tế Việt Nam dần phục hồi nhưng chưa vững chắc, đối mặt với nhiều rủi do, thách thức

Kinh tế nước ta dần phục hồi, với dấu hiệu tốt dần lên theo từng quý, mặc dù có những tháng sự phục hồi khá mong manh. Doanh nghiệp phải đương đầu với nhiều khó khăn, thách thức do nhu cầu của thị trường trong nước thấp; khó khăn về tài chính.

Tình hình doanh nghiệp ra nhập và rút khỏi thị trường đã có tín hiệu khá tích cực qua từng quý. Quý I/2024, số doanh nghiệp gia nhập thị trường chỉ bằng 0,8 lần số doanh nghiệp rút khỏi thị trường; chỉ số này của 6 tháng đã đổi chiều, với số doanh nghiệp ra nhập bằng 1,08 lần số doanh nghiệp rút khỏi thị trường; cả năm 2024, chỉ số doanh nghiệp ra nhập thị trường gấp 1,18 lần số doanh nghiệp rút khỏi thị trường.

Trong năm 2024 cả nước có 233,4 nghìn doanh nghiệp ra nhập thị trường và 197,9 nghìn doanh nghiệp rút khỏi thị trường. Bình quân một tháng trong năm nay, có 19,45 nghìn doanh nghiệp ra nhập và 16,5 nghìn doanh nghiệp rút khỏi thị trường.

Chỉ số PMI các tháng trong năm 2024 phản ánh sự phục hồi nhẹ, mong manh của công nghiệp chế biến chế tạo. Chỉ số PMI xoay quanh mức 50,3 - 50,4 điểm trong 5 tháng; giảm dưới ngưỡng 50 điểm trong 3 tháng cuối quý; đạt mức cao nhất, 54,7 điểm trong 2 tháng, phục hồi nhẹ ở ngưỡng trên 50 điểm trong tháng 10 và 11, và quay đầu giảm xuống dưới ngưỡng vào tháng 12/2024 với PMI ở mức 49,8 điểm.

Sản lượng và đơn hàng tăng trở lại ở mức thấp; những bất ổn trên thị trường thế giới cũng làm giảm niềm tin kinh doanh khiến chỉ số này giảm xuống mức thấp nhất trong hơn một năm rưỡi.

Năng lực sản xuất không thay đổi; tồn kho hàng hóa thành phẩm và nguyên vật liệu giảm mạnh; việc làm biến động tăng, giảm nhẹ trước thực trạng khoảng 20% số doanh nghiệp không thể tuyển đủ lao động theo yêu cầu, dẫn tới công việc bị tồn đọng; giá nguyên vật liệu đầu vào và giá sản phẩm đầu ra tăng lên, tạo áp lực lạm phát, làm suy giảm tổng cầu tiêu dùng trong nước.

Thiên tai và biến đổi khí hậu đã gây thiệt hại nặng nề cho nông nghiệp và thủy sản; gây đình trệ tạm thời hoạt động sản xuất công nghiệp và xây dựng tại một số địa phương. Nhiều cơ sở du lịch, lưu trú bị hư hỏng. Chỉ riêng cơn bão số 3, ước tính làm GDP năm 2024 giảm khoảng 0,15%.

TS. Nguyễn Bích Lâm: Chính phủ phát huy tinh thần trách nhiệm, đổi mới phương pháp chỉ đạo tạo sức mạnh cho các động lực tăng trưởng

TS. Nguyễn Bích Lâm: Chính phủ phát huy tinh thần trách nhiệm, đổi mới phương pháp chỉ đạo tạo sức mạnh cho các động lực tăng trưởng

Chính phủ phát huy tinh thần trách nhiệm, đổi mới phương pháp chỉ đạo tạo sức mạnh cho các động lực tăng trưởng

Trong bối cảnh ngân hàng Trung ương các nền kinh tế hàng đầu thế giới cắt giảm lãi suất ở mức khá sâu; kinh tế nước ta có độ mở lớn, nguyên vật liệu dùng trong sản xuất phụ thuộc nhiều từ nhập khẩu. Năm 2024 chiến lược tăng trưởng dựa vào xuất khẩu, vốn đầu tư ngoài nhà nước và vốn FDI là động lực tăng trưởng quan trọng của nền kinh tế.

Xuất khẩu hàng hóa lập mốc lịch sử mới

Với các chính sách kịp thời, đồng bộ của Chính phủ nhằm tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ sản xuất, xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường xuất khẩu, hoạt động thương mại quốc tế hàng hóa đóng vai trò quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đạt kết quả tích cực, duy trì mức tăng khá cao, kim ngạch xuất khẩu lập mốc lịch sử mới là một trong những điểm sáng của nền kinh tế.

Bức tranh xuất khẩu hàng hóa năm 2024 có sắc màu tươi mới đó là tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của khu vực kinh tế trong nước ước tăng 19,8%, cao hơn 7,5 điểm phần trăm so với tốc độ tăng 12,3% của khu vực FDI.

Ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản đóng vai trò đặc biệt quan trọng, tạo dấu ấn đậm nét trong chiến lược tăng trưởng dựa vào xuất khẩu.

Các mặt hàng xuất khẩu chủ lực như trái cây, gạo, cà phê và hạt điều đạt kết quả ấn tượng, lập các mốc kỷ lục, như: Trái cây lập mốc 7,14 tỷ USD; gạo đạt kỷ lục 9 triệu tấn, với kim ngạch 5,66tỷ USD; cà phê có kim ngạch tăng mạnh nhất trong các nhóm xuất khẩu chủ lực, lần đầu tiên vượt mốc 5 tỷ USD trong lịch sử, đạt 5,62 tỷ USD; kim ngạch xuất khẩu thủy sản đạt 10,04 tỷ USD.

Bức tranh xuất khẩu hàng hóa năm 2024 ghi dấu ấn đáng tự hào vớikim ngạch xuất khẩu bình quân những tháng sau cao hơn những tháng trước. Bình quân một tháng trong năm 2024 kim ngạch xuất khẩu đạt 33,79 tỷ USD, cao hơn 0,5 tỷ USD so với bình quân 9 tháng; cao hơn 2,02 tỷ USD so với bình quân 6 tháng đầu năm 2024. Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa năm 2024 ước đạt 405,5 tỷ USD, tăng 14,3% so với năm trước, lập mốc lịch sử mới, vượt mốc lịch sử 371,82 tỷ USD của năm 2022.

Cán cân thương mại hàng hóa năm 2024 ước tính xuất siêu 24,77 tỷ USD, giảm 12,8% so với mức xuất siêu 28,4 tỷ USD của năm 2023.

Năm 2024, tổng kim ngạch xuất khẩu dịch vụ ước đạt 23,85 tỷ USD, tăng 17,7% so với năm trước; nhập khẩu dịch vụ ước đạt 36,19 tỷ USD, tăng 24,4% so với năm trước; nền kinh tế nhập siêu dịch vụ 12,34 tỷ USD làm cho cán cân thương mại hàng hóa và dịch vụ quốc tế chỉ còn xuất siêu 12,43 tỷ USD.

Đáng lưu ý trong năm 2024 xuất khẩu dịch vụ du lịch đạt 12,19 tỷ USD, tăng 33,1%, với gần 17,6 triệu khách quốc tế đến Việt Nam.

Ở chiều ngược lại, nhập khẩu dịch vụ du lịch đạt 12,57 tỷ USD, tăng tới 60,6%, với 5,3 triệu công dân Việt Nam xuất cảnh, dẫn tới nền kinh tế nhập siêu dịch vụ du lịch 0,38 tỷ USD, điều này đáng để Chính phủ và các nhà quản lý du lịch trong nước suy ngẫm trước thực tế chỉ 5,3 triệu người Việt Nam đi du lịch đã chi tiêu vượt 17,6 triệu khách quốc tế đến Việt Nam.

Các điểm du lịch trong nước chưa có chính sách thu hút khách du lịch nội địa. Vào mùa du lịch cao điểm giá vé máy bay nội địa của các hãng hàng không trong nước cao hơn giá vé máy bay quốc tế đi, đến Việt Nam của các hãng hàng không nước ngoài.

Thành công của Dự án 500 kV mạch 3 Quảng Trạch - Phố Nối là minh chứng cho khả năng vượt qua mọi khó khăn khi có quyết tâm cao và tinh thần trách nhiệm của hệ thống chính trị và sự đồng lòng của toàn dân.

Thành công của Dự án 500 kV mạch 3 Quảng Trạch - Phố Nối là minh chứng cho khả năng vượt qua mọi khó khăn khi có quyết tâm cao và tinh thần trách nhiệm của hệ thống chính trị và sự đồng lòng của toàn dân.

Giải ngân vốn đầu tư công chậm, đầu tư của khu vực ngoài nhà nước chưa tương xứng với tiềm năng

Năm 2024, vốn đầu tư công thực hiện ước đạt 661,3 nghìn tỷ đồng bằng 84,6% kế hoạch năm, thấp hơn tỷ lệ 87,3% của năm trước. Đáng lưu ý, có một số cơ quan trung ương và địa phương có tỷ lệ giải ngân rất thấp so với bình quân chung cả nước.

Điểm sáng trong giải ngân vốn đầu tư công đó là sự chỉ đạo quyết liệt, xử lý những bất cập chồng chéo trong môi trường pháp lý; với tư duy đổi mới, phương pháp, cách tiếp cận khác so với cách làm trước đây của Thủ tướng Chính phủ và lãnh đạo địa phương, Dự án đường dây 500 kV mạch 3 Quảng Trạch - Phố Nối đã rút ngắn thời gian thi công từ 3-4 năm xuống còn 7 tháng.

Đây là điển hình sinh động về tập trung nguồn lực, quan tâm chỉ đạo, nâng cao hiệu quả vốn đầu tư công, tạo sự lan tỏa và thu hút đầu tư từ các nguồn vốn của nền kinh tế. Thành công của Dự án là minh chứng cho khả năng vượt qua mọi khó khăn khi có quyết tâm cao và tinh thần trách nhiệm của hệ thống chính trị và sự đồng lòng của toàn dân. Tuy vậy, điểm sáng về giải ngân vốn đầu tư công xuất hiện không nhiều.

Vốn đầu tư ngoài nhà nước chiếm trên 50% tổng vốn đầu tư của toàn nền kinh tế. Trước đại dịch COVID-19, vốn đầu tư thực hiện của khu vực ngoài nhà nước có tốc độ tăng trên 10% mỗi năm, phản ánh vai trò rất quan trọng của nguồn vốn này đối với nâng cao năng lực, thúc đẩy tăng trưởng nhanh của nền kinh tế.

Trong năm 2024, vốn đầu tư thực hiện của khu vực ngoài nhà nước có dấu hiệu khởi sắc, nhưng chưa huy động được hết tiềm năng cho phát triển, ước đạt 2064,2 nghìn tỷ đồng, tăng 7,7%, chiếm 55,9% tổng vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội.

Đầu tư nước ngoài khởi sắc, kiến tạo cơ hội đón nhận làn sóng FDI thế hệ mới

Cùng với tận dụng các lợi thế hiện có của kinh tế Việt Nam trong thu hút nguồn vốn FDI. Trong thời gian qua, Chính phủ có những quyết sách nhằm tạo dựng cơ hội, chuẩn bị tâm thế sẵn sàng đón nhận làn sóng FDI thế hệ mới, như xây dựng chiến lược phát triển ngành công nghiệp bán dẫn, hợp tác với các doanh nghiệp, đối tác nước ngoài thực hiện mục tiêu đào tạo 50 nghìn kỹ sư đến năm 2030.

Bên cạnh đào tạo nguồn nhân lực chất lượng, Chính phủ và các địa phương đang thực thi giải pháp nhằm đảm bảo năng lượng ổn định, phát triển năng lượng tái tạo, năng lượng xanh.

Năm 2024, tổng vốn đăng ký cấp mới, vốn đăng ký điều chỉnh và giá trị góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài đạt 38,23 tỷ USD, giảm 3,0% so với năm trước. Vốn FDI thực hiện ước đạt 25,35 tỷ USD, tăng 9,4% so với năm trước, đạt mức cao nhất từ năm 2020 đến nay.

Số dự án, số vốn đăng ký của các nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt số vốn FDI thực hiện trong năm 2024 đã phác họa những nét chấm phá của bước ngoặt trong làn sóng đón nhận dòng vốn FDI thế hệ mới.

Nổi bật trong năm 2024, Việt Nam là điểm đến của nhiều tập đoàn lớn trên thế giới ở nhiều lĩnh vực khác nhau từ công nghệ bán dẫn đến năng lượng tái tạo.

Nhiều tên tuổi lớn trong mảng công nghệ như Nvidia, Intel, Synopsys, Qualcomm, Infineon, Amkor… cho biết đã có kế hoạch mở rộng đầu tư tại Việt Nam.

Nhiều dự án lớn ở các lĩnh vực bán dẫn, năng lượng, sản xuất linh kiện, sản phẩm điện tử, sản phẩm nhiều hàm lượng giá trị gia tăng được đầu tư mới và bổ sung vốn trong năm 2024.

Trong tháng 12, Chủ tịch Nvidia chính thức ký thỏa thuận hợp tác với Việt Nam thành lập Trung tâm nghiên cứu và phát triển (R&D) về AI và trung tâm dữ liệu AI.

Tiêu dùng cuối cùng - Động lực tăng trưởng có quy mô lớn nhất, quan trọng nhất có bước đi chậm và ngắn

Tiêu dùng cuối cùng chiếm tỷ trọng trên 63% GDP, phản ánh vai trò rất quan trọng của động lực này đối với tăng trưởng kinh tế.

Năm 2024, tiêu dùng cuối cùng của hộ gia đình và Chính phủ tăng 6,57%. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng theo giá so sánh ước tăng 5,9 %, thấp hơn 0,9 điểm phần trăm so với mức tăng 6,8% của năm 2023.

Điều này phản ánh khó khăn của các hộ gia đình khi việc làm và thu nhập vẫn bị ảnh hưởng do sự phục hồi chậm và yếu của nền kinh tế; tỷ lệ hộ gia đình gặp khó khăn về tài chính còn cao; niềm tin của người tiêu dùng giảm sút, người dân thắt chặt chi tiêu, tiết kiệm nhiều hơn và trì hoãn các khoản mua sắm có giá trị lớn.

Chính phủ chủ động, linh hoạt trong điều hành chính sách tiền tệ, kết hợp hài hòa với chính sách tài khóa, giữ vững ổn định vĩ mô, hỗ trợ tăng trưởng

Ngân hàng Nhà nước (NHNN) giữ ổn định các mức lãi suất điều hành tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng tiếp cận nguồn vốn từ NHNN với chi phí thấp để hỗ trợ nền kinh tế.

Ngay từ đầu năm, NHNN đã định hướng tăng trưởng tín dụng năm 2024 khoảng 15%, đồng thời giao hết toàn bộ chỉ tiêu cả năm cho các tổ chức tín dụng (TCTD), linh hoạt điều chỉnh phù hợp với diễn biến tình hình thực tế. Đặc biệt, NHNN đã chủ động bổ sung hạn mức tín dụng cho các TCTD, tạo thuận lợi cung ứng vốn đối với nền kinh tế.

Ngân hàng Nhà nước đã phối hợp đồng bộ các công cụ chính sách tiền tệ, điều hành tỷ giá linh hoạt, phù hợp, xử lý hiệu quả các cú sốc bên ngoài, bình ổn thị trường ngoại tệ, Việt Nam đồng mất giá với biên độ phù hợp với xu hướng chung của các đồng tiền trong khu vực và trên thế giới, góp phần giữ vững ổn định vĩ mô và kiểm soát lạm phát.

Bộ Tài Chính tiếp tục thực hiện chính sách giảm, giãn, hoãn các loại thuế, phí, tiền thuê đất để hỗ trợ doanh nghiệp và người dân vượt qua khó khăn, ổn định và phát triển sản xuất, như giảm 2% thuế VAT; giảm mức thuế bảo vệ môi trường đối với xăng, dầu, mỡ nhờn; giảm mức thu đối với 36 khoản phí, lệ phí để hỗ trợ cắt giảm chi phí cho doanh nghiệp, người dân; gia hạn thời gian nộp thuế VAT, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân và tiền thuê đất.

Sự năng động của các thực thể kinh tế trong sản xuất kinh doanh, cùng với điều hành chính sách tài khóa và tiền tệ linh hoạt, trách nhiệm của Chính phủ, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, lạm phát tiếp tục được kiểm soát dưới mức mục tiêu 4%; Tăng trưởng kinh tế ước đạt 7,09%, thuộc nhóm nền kinh tế có tốc độ tăng cao trên thế giới, gấp 2,2 lần mức tăng trưởng kinh tế toàn cầu; vượt 0,59 điểm phần trăm so với mức cao của mục tiêu đã được Quốc hội thông qua.

Năm 2024 khép lại, đánh dấu một năm Chính phủ chủ động, linh hoạt trong điều hành chính sách vĩ mô, phù hợp với diễn biến tình hình kinh tế thế giới và trong nước; lạm phát được kiểm soát; sản xuất phục hồi quý sau tốt hơn quý trước; đổi mới tư duy, phương pháp tiếp cận, từng bước nâng cao hiệu quả vốn đầu tư; đầu tư nước ngoài khởi sắc, sẵn sàng tâm thế đón nhận làn sóng FDI thế hệ mới; kim ngạch xuất khẩu đạt mốc lịch sử mới; tăng trưởng kinh tế vượt xa mức mục tiêu đánh dấu năm 2024 tăng tốc thành công, tạo nền tảng cho năm 2025 về đích thắng lợi.

Bối cảnh và dự báo kinh tế thế giới năm 2025

Trong báo cáo Triển vọng kinh tế thế giới năm 2025, IMF cảnh báo sẽ có nhiều yếu tố bất ổn và khó lường đối với kinh tế toàn cầu, bao gồm các cuộc xung đột thương mại tiềm tàng, căng thẳng địa chính trị, đồng USD mạnh lên quá mức và sự suy yếu của kinh tế Trung Quốc.

Lãi suất đồng USD ở mức cao hơn so với các đồng tiền khác, vì vậy đồng USD có thể tiếp tục mạnh lên quá mức sẽ khiến áp lực vay nợ và áp lực tỷ giá tại các quốc gia mới nổi tăng nhanh.

Chính sách "Nước Mỹ trên hết“ của Tổng thống Donald Trump được dự báo sẽ tạo ra căng thẳng thương mại tiềm tàng khi Mỹ áp dụng các chính sách thương mại có tính bảo hộ rất cao, đe dọa làm suy yếu kinh tế toàn cầu.

Cùng với lập trường cứng rắn hơn của Mỹ đối với Trung Quốc và các đối tác thương mại chính có thể gây hậu quả đối với dòng chảy thương mại quốc tế khi chuỗi cung ứng và vận chuyển hàng hóa sẽ trở nên đắt đỏ hơn, ảnh hưởng lớn đến mặt bằng lãi suất và lạm phát toàn cầu.

IMF dự báo kinh tế Mỹ tăng 2,8% trong năm 2024 và 2,2% trong năm 2025. ECB dự báo tăng trưởng kinh tế khu vực Eurozone ở mức 1% cho năm 2025, cao hơn 0,2 điểm phần trăm của năm 2024 và tăng 1,4% trong năm 2026.

Kinh tế Trung Quốc tiếp tục trầm lắng, dự báo trong năm 2025 Chính phủ Trung Quốc sẽ thực hiện chính sách nới lỏng tiền tệ phù hợp để kích thích kinh tế trong bối cảnh sản xuất đã dư thừa đối với tiêu dùng trong nước. Điều này sẽ tác động rất mạnh tới làn sóng dịch chuyển sản xuất của Trung Quốc ra nước ngoài, nhằm tránh căng thẳng thương mại với Mỹ, gia tăng xuất khẩu.

Đối với kinh tế toàn cầu năm 2025, IMF dự báo tăng trưởng đạt mức 3,2% tương đương mức tăng của năm 2024. Trong khi đó, OECD dự báo sự vững vàng của kinh tế toàn cầu sẽ duy trì trong năm 2025 và năm 2026 với cùng mức tăng GDP đạt 3,3%. Triển vọng kém tươi sáng của kinh tế Trung Quốc và châu Âu sẽ được bù đắp bởi đà tăng trưởng vững của kinh tế Mỹ và những nền kinh tế mới nổi khác như Ấn Độ.

Các chuyên gia nhìn nhận nguồn cung năng lượng chuyển từ thời kỳ khan hiếm sang thời kỳ dồi dào với nhiều nguồn cung. Chính quyền của Tổng thống Donal Trump sẽ thúc đẩy khai thác dầu mỏ, giá dầu thô dự báo giảm mạnh trong năm 2025.

Cần làm gì để thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế năm 2025?

Từ kết quả tích cực trong tăng trưởng kinh tế năm 2024, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2025, trong đó đặt mục tiêu GDP tăng từ 6,5%-7%. Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo quyết liệt hơn, đã xác định mục tiêu cao hơn, với tinh thần phấn đấu quyết liệt, bứt phá, nâng mức tăng GDP năm 2025 lên khoảng 8%.

Bên cạnh cơ hội, kinh tế nước ta đang đối mặt với 3 nhóm rào cản, đó là: Quá trình ra quyết định, thực thi quyết định để xử lý bất cập về thể chế và các rào cản quá chậm khiến nguồn lực không được xử dụng hiệu quả; cơ sở hạ tầng chưa theo kịp và đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội; nguồn nhân lực đông về số lượng, kém về chất lượng khi có tới 71,7% lao động chưa qua đào tạo.

Để thực hiện thành công mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025, tạo thế và lực cho đất nước bước vào kỷ nguyên mới, thiết nghĩ, Chính phủ và các địa phương cần thực hiện một số nhóm giải pháp sau:

Một là, Chính phủ chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương khẩn trương xác định những tồn tại, bất cập, thách thức đang cản trở các động lực tăng trưởng, đặc biệt đối với nhóm thể chế và môi trường pháp lý, từ đó đưa ra các giải pháp tháo gỡ; khơi thông các nguồn lực, gắn tinh thần trách nhiệm và chịu trách nhiệm của thủ trưởng các bộ, ngành, lãnh đạo các địa phương; thực thi nghiêm chế tài đối với cán bộ công chức vô trách nhiệm nhằm phát huy tối đa sức mạnh, tính hiệu quả của các động lực tăng trưởng.

Hai là, khẩn trương thực hiện tinh gọn bộ máy, xây dựng và vận hành nhà nước quản trị quốc gia hiệu lực, hiệu quả; thực hiện phương pháp quản lý thực tiễn, hiệu quả của khu vực tư nhân trong quản lý khu vực công; nâng cao hiệu suất và kiểm soát kết quả công việc; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, xóa bỏ tập trung quyền lực, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh trong bộ máy nhà nước, không giới hạn thẩm quyền của các cơ quan nhằm đạt hiệu quả công việc cao nhất; thúc đẩy áp dụng mô hình quản lý công - tư linh hoạt.

Đẩy mạnh chuyển đổi số và áp dụng trí tuệ nhân tạo để các cơ quan quản lý nhà nước các cấp có thể hoạt động 24/7 chứ không chỉ trong 8 giờ hành chính. Chuyển đổi số, áp dụng công nghệ và trí tuệ nhân tạo sẽ giúp quản lý thông minh hơn, chất lượng hơn ở mọi lúc, mọi nơi, thúc đẩy xã hội chuyển động nhanh hơn, nắm bắt cơ hội tốt hơn.

Ba là, Chính phủ và các địa phương cần đánh giá năng lực thực tế của từng ngành và toàn bộ nền kinh tế, từ đó xây dựng kịch bản tăng GDP theo các mức khác nhau cho năm 2025 và giai đoạn 2026-2030.

Kịch bản tăng trưởng cần chỉ rõ rõ từng ngành, từng lĩnh vực phải tăng bao nhiêu và xác định rõ tiềm năng, động lực, nguồn lực cụ thể là gì để chuẩn bị và khai thác các nguồn lực cho phát triển.

Cùng với đó cần chủ động, linh hoạt thực hiện chính sách tài khóa, tiền tệ có trọng tâm, trọng điểm phối hợp đồng bộ, hài hòa, chặt chẽ với các chính sách khác; chính sách tín dụng và lãi suất phù hợp, hài hòa với nhu cầu, đảm bảo lợi ích của các thực thể có liên quan trong nền kinh tế.

Bốn là, đầu tư ngoài nhà nước chiếm tỷ trọng lớn, là động lực quan trọng thúc đẩy tăng trưởng. Cần quy định doanh nghiệp tư nhân là động lực chủ yếu, quan trọng cho phát triển, tạo môi trường kinh doanh bình đẳng cho mọi loại hình doanh nghiệp.

Cùng với đó, Chính phủ cần đổi mới công tác lập, phân bổ và thẩm định dự án đầu tư công để mỗi dự án trở thành công trình hiệu quả. Tập trung đầu tư vào các dự án lớn, xóa bỏ đầu tư dàn trải, giảm thiểu thời gian thực hiện dự án, khẩn trương đưa các công trình vào sử dụng.

Năm là, xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ là động lực quan trọng không chỉ trong thập kỷ này mà cả trong thập niên tới. Chính phủ cần khẩn trương nắm bắt các ngành, lĩnh vực nào sẽ trở thành xu hướng phát triển của kinh tế thế giới, kịp thời sửa đổi và bổ sung Chiến lược tăng trưởng dựa vào xuất khẩu để đưa kinh tế Việt Nam hòa vào dòng chảy, thuộc nhóm đi tiên phong trên một số lĩnh vực của kinh tế thế giới. Đặc biệt, Chính phủ và các địa phương cần có chính sách và giải pháp giảm thiểu nhập siêu dịch vụ.

Sáu là, bối cảnh kinh tế thế giới biến đổi nhanh, phức tạp; ứng dụng công nghệ cao, trí tuệ nhân tạo, phát triển xanh là xu hướng tất yếu.

Kinh tế nước ta có độ mở lớn, vì vậy, Chính phủ phải nắm bắt thời cơ, cơ cấu lại nền kinh tế, kiến tạo động lực mới cho phát triển. Cùng với đó, Chính phủ cần khơi thông tất cả các nguồn nhân lực, vật lực và tài lực của đất nước đáp ứng nhu cầu đầu tư, phát triển kinh tế.

Với phương châm bản lĩnh linh hoạt, kịp thời hiệu quả, với năng lực và kinh nghiệm trong điều hành của Chính phủ cùng sự đồng hành kịp thời, hiệu quả của Quốc hội; với tinh thần chủ động, linh hoạt, sáng tạo, đương đầu với khó khăn, thách thức của cộng đồng doanh nghiệp, kinh tế Việt Nam sẽ hóa giải được những khó khăn, bất cập, phấn đấu đạt mục tiêu tăng trưởng kinh tế năm 2025 cao nhất, tạo nền tảng và gia tốc để kinh tế Việt Nam vươn mình trong kỷ nguyên mới./.

Nguyễn Bích Lâm

Nguyên Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê

Nguồn Chính Phủ: https://xaydungchinhsach.chinhphu.vn/kinh-te-viet-nam-2024-tang-toc-thanh-cong-tao-da-cho-nam-2025-ve-dich-119250106100813238.htm