Kỳ 3: Tạo động lực mới từ thể chế, chính sách

Muốn xây dựng nền nông nghiệp bền vững, nông thôn hiện đại, nông dân trí thức, văn minh, trước hết cần có những những quyết sách mang tầm chiến lược để cải cách về thể chế và chính sách nhằm đổi mới mạnh mẽ tư duy từ sản xuất nông nghiệp sang kinh tế nông nghiệp.

Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày16-6-2022 tại Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về nôngnghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đã làm cho nhận thức, tư duy trong cả hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân dân về "tam nông". Trong đó, đặc biệt nhấn mạnh tới khái niệm kinh tế nông thôn, kinh tế nông nghiệp như là đối trọng của sản xuất nông nghiệp. Vậy sản xuất nông nghiệp khác với kinh tế nông nghiệp như thế nào nhìn từ góc độ tư duy?

Tư duy sản xuất nông nghiệp là quá trình nhận thức các quy luật khách quan về sinh học của cây trồng, vật nuôi và quy luật chuyển hóa của nguyên vật liệu sản xuất, sử dụng tài nguyên vật liệu để gia tăng năng suất và sản lượng sản phẩm. Còn tư duy kinh tế nông nghiệp là tư duy về việc sử dụng hiệu quả nguồn lực hữu hạn trong nông nghiệp để sản xuất ra những sản phẩm đáp ứng yêu cầu thị trường và đạt được lợi nhuận cao nhất có thể. Để sản xuất theo tư duy kinh tế nông nghiệp thì người nông dân phải căn cứ nhu cầu của thị trường để xác định chủng loại, tiêu chuẩn sản phẩm cần sản xuất. Quá trình sản xuất phải đảm bảo chất lượng để đạt tiêu chuẩn, yêu cầu của khách hàng.

Phát biểu kết luận tại Hội nghị đối thoại với nông dân Việt Nam năm 2023 với chủ đề: "Nông dân là chủ thể, là trung tâm trong phát triển nông nghiệp, kinh tế nông thôn và xây dựng nông thôn mới xanh, bền vững", Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính nêu rõ, việc phát triển nông nghiệp tuy đã đạt được những kết quả tích cực, song tăng trưởng nông nghiệp thời gian qua vẫn chủ yếu dựa trên "tư duy sản xuất", cần nhanh chóng chuyển đổi sang "tư duy kinh tế", tích hợp đa giá trị, gắn với phát triển xanh và bền vững.

Người đứng đầu Chính phủ đề nghị cần nâng cao nhận thức của nông dân về phát triển nông nghiệp hàng hóa lớn, nông nghiệp thông minh, sạch và an toàn, tăng cường ứng dụng thành tựu khoa học, công nghệ, tích cực hội nhập quốc tế, thích ứng với biến đổi khí hậu, tận dụng mọi cơ hội, biến nguy thành cơ và không để ai bị bỏ lại phía sau. Tổ chức lại sản xuất, tăng cường liên kết theo chuỗi giá trị; gắn sản xuất với chế biến, tiêu thụ nông sản trên cơ sở phát triển các hình thức hợp tác, liên kết đa dạng giữa hộ gia đình với các tổ chức hợp tác và doanh nghiệp, lấy doanh nghiệp làm trung tâm và động lực để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và bảo đảm hài hòa lợi ích của các chủ thể tham gia; quán triệt phương châm “muốn đi nhanh hãy đi một mình, muốn đi xa hãy đi cùng nhau".

“Chúng ta phải tăng cường liên kết, đa dạng hóa chuỗi sản xuất, chuỗi cung ứng; tăng cường chế biến sâu; mở rộng thị trường cạnh tranh lành mạnh; thúc đẩy phát triển sản xuất xanh, năng suất cao, phát thải thấp, phát triển bền vững”, Thủ tướng Phạm Minh Chính lưu ý.

Bên cạnh đó, để các chủ trương, định hướng lớn của Đảng về "nông nghiệp, nông dân, nông thôn" sớm đi vào cuộc sống, Nghị quyết số 19-NQ/TW đã xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan Trung ương, địa phương và các tổ chức chính trị - xã hội trong tổ chức thực hiện.

Tiếp đó, Chính phủ đã có Nghị quyết 26/NQ-CP ngày 27-2-2023 về ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 19-NQ/TW và chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương triển khai thực hiện đồng bộ các chương trình, đề án và cơ chế chính sách, trong đó tập trung và nổi bật là Chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, Đề án cấu lại ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững và Chiến lược phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050.

Chiến lược có rất nhiều điểm đổi mới mang tính đột phá quan trọng về thể chế và chính sách. Trong đó, thể hiện rõ đổi mới về tư duy, định hướng phát triển cho các ngành, các lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn; tính toàn diện, bao trùm liên ngành trong định hướng và giải pháp để xây dựng nền nông nghiệp bền vững theo hướng sinh thái, nông thôn hiện đại, nông dân trí thức, văn minh.

Đặc biệt, ngay từ những ngày đầu năm 2024, Quốc hội đã ban hành Luật Đất đai (sửa đổi). Theo đó, Luật đất đai quy định về chế độ sở hữu đất đai, quyền hạn và trách nhiệm của Nhà nước đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai và thống nhất quản lý về đất đai, chế độ quản lý và sử dụng đất đai, quyền và nghĩa vụ của công dân, người sử dụng đất đối với đất đai thuộc lãnh thổ của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Điểm đột phá trong chính sách đất đai lần này là Luật đã cho phép sử dụng đất nông nghiệp đa mục đích, vấn đề này sẽ tạo ra một cú hích trong việc phát triển kinh tế trên đất nông nghiệp.

Gần đây nhất, Thủ tướng Chính phủ đã ký và ban hành Quyết định số 12/2024/QĐ-TTg ngày 31-7-2024 về cơ chế, chính sách giải quyết việc làm và đào tạo nghề cho người có đất thu hồi. Quyết định này quy định cơ chế, chính sách giải quyết việc làm và đào tạo nghề cho người có đất thu hồi theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 109 của Luật Đất đai.

Theo đánh giá của các chuyên gia, người làm chính sách thì quyền sử dụng đất nông nghiệp sẽ được quan tâm hơn và người nông dân sẽ được hưởng lợi. Các chính sách mới về đất nông nghiệp sẽ thúc đẩy kinh tế nông nghiệp, thay đổi bộ mặt nông thôn, giúp người nông dân phát triển kinh tế.

Thời gian tới cần tiếp tục hoàn thiện thể chế, chính sách về nông nghiệp, nông dân, nông thôn; phát triển thị trường tài chính, tín dụng vi mô, các sản phẩm dịch vụ tài chính mới. Sửa đổi, bổ sung chính sách, pháp luật đất đai bảo đảm quản lý, sử dụng bền vững, hiệu quả đất nông nghiệp, thúc đẩy tích tụ, tập trung, sử dụng linh hoạt, hiệu quả đất lúa.

Chiến lược Quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2050” vừa được Chính phủ ban hành đã xác định ngành Nông nghiệp hướng tới những “giá trị xanh” được tạo nên từ “chuyển đổi xanh, tiêu dùng xanh, kinh tế xanh”. Song song với mục tiêu duy trì, cải thiện năng suất, sản lượng, nền nông nghiệp cần phát triển tích hợp “đa giá trị”.

Tích hợp đa giá trị là tạo ra giá trị gia tăng tối ưu trên một đơn vị diện tích canh tác, trong điều kiện đất nông nghiệp ngày càng thu hẹp diện tích và chịu tác động từ biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh. Tích hợp đa giá trị là tạo ra giá trị tăng thêm dựa trên khai thác hiệu quả các nguồn lực khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, thay cho thực trạng ngành nông nghiệp tăng trưởng dựa trên thâm dụng lao động, thâm dụng tài nguyên thiên nhiên. Tích hợp đa giá trị là kết tinh tài nguyên bản địa, với các kỹ thuật, công nghệ chế biến tiên tiến, và cả những bản sắc văn hóa - xã hội, tạo thành thương hiệu cho sản phẩm nông nghiệp, nông thôn. Tích hợp đa giá trị là kết nối hài hòa nông nghiệp truyền thống với các mô hình nông nghiệp hữu cơ, thông minh, tuần hoàn...

Với cách thức tiếp cận “đa giá trị”, các công trình hạ tầng, các đề án, kế hoạch phục vụ, hỗ trợ phát triển nông nghiệp, hay mở rộng ra đến tất cả các vấn đề của ngành nông nghiệp, đều có thể được quan sát, nhìn nhận trong tổng thể của sự kết nối, của tính đa công dụng, đa chức năng, đa mục tiêu.

Điển hình như ở ngành lâm nghiệp, một khu rừng không chỉ có giá trị từ ngành khai thác, chế biến gỗ, mà còn được xem là một nguồn lực thiên nhiên, với tính “đa dụng” của nó. Cùng với giá trị từ cây gỗ thô, rừng còn là không gian bảo tồn các động vật hoang dã, những loài thảo mộc tự nhiên, dược liệu có giá trị dinh dưỡng cao, là nơi trải nghiệm cảnh quang thiên nhiên, là nơi gìn giữ tính đa dạng sinh học, hấp thụ khí carbon, giúp cân bằng hệ sinh thái. Những giá trị gần như vô hình đó tạo ra không gian sống hài hòa, thân thiện giữa con người với thiên nhiên.

Mô hình nông, lâm kết hợp là một hệ thống quản lý sử dụng đất, trong đó, cây hằng năm, cây bụi, cây thân thảo được trồng xung quanh hoặc xen giữa các cây trồng lâu năm, cũng có thể kết hợp đồng cỏ hoặc chăn nuôi. Sự kết hợp này tạo ra sự đa dạng, mang lại năng suất, lợi nhuận, sinh thái và bền vững trong sử dụng đất. Tính đa dạng sinh học trong các hệ thống nông, lâm kết hợp thường cao hơn trong hệ thống nông nghiệp thông thường. Do đó, nhiều trang trại, hộ nông dân đã lựa chọn chuyển đổi sang mô hình nông, lâm kết hợp nhằm đa dạng hóa sản phẩm, cải thiện sinh kế cũng như thích ứng với các tác động của biến đổi khí hậu.

Ở Việt Nam, có nhiều hình thức canh tác nông lâm kết hợp được ứng dụng trong thực tế, trong đó, có thể kể tới mô hình trồng các loài cây họ đậu theo đường đồng mức trên diện tích canh tác cây hằng năm nhằm giảm xói mòn và làm phân xanh tại chỗ; mô hình trồng cây nông nghiệp kết hợp cây lâm nghiệp; mô hình trồng trọt dành một phần đất cho chăn nuôi; mô hình trồng rừng quy mô nhỏ kết hợp sản xuất lương thực, cây ăn quả và cây thực phẩm; mô hình cây ăn quả kết hợp cây công nghiệp dài ngày.

Hệ thống nông nghiệp cảnh quan bền vững là phương pháp tiếp cận tổng hợp để giải quyết tình trạng suy thoái môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu và tăng cường đa dạng sinh học, đồng thời cải thiện an ninh về lĩnh vực lương thực và dinh dưỡng. Đến nay, có nhiều mô hình nông nghiệp cảnh quan bền vững, như mô hình cà phê cảnh quan ở các tỉnh Lâm Đồng, Đắk Lắk, mô hình quản lý và bảo tồn hệ sinh thái ngập nước và phát triển sinh thái bền vững ở Vườn quốc gia Tràm Chim, tỉnh Đồng Tháp.

Mô hình chăn nuôi an toàn sinh học 4F (Farm - Food - Feed - Fertilizer: Trồng trọt - Thực phẩm - Chăn nuôi - Phân bón) được nghiên cứu và phát triển bởi Tập đoàn Quế Lâm đã xây dựng hệ sinh thái nông nghiệp thông qua triển khai các khu tổ hợp chế biến nông sản hữu cơ, kiểm soát sản xuất thịt lợn an toàn bằng hệ thống nuôi khép kín. Chất thải trong trang trại được thu gom và xử lý để sản xuất phân bón hữu cơ vi sinh phục vụ trồng trọt, tạo thành quy trình sản xuất nông nghiệp khép kín từ chăn nuôi đến trồng trọt, từ cây đến đất. Mô hình góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế, phòng ngừa dịch bệnh, góp phần bảo vệ môi trường, giảm phát thải khí nhà kính; mô hình “vòng tuần hoàn xanh” trong các trang trại bò sữa...

Hệ thống nông nghiệp kết hợp du lịch sinh thái hệ thống sử dụng nguyên lý cộng hưởng của nông nghiệp sinh thái. Du lịch nông nghiệp sinh thái là mô hình đang ngày càng được đầu tư và chú trọng ở Việt Nam trong những năm gần đây, tạo nhiều sức hút đối với du khách trong và ngoài nước cũng như gia tăng thu nhập cho người sản xuất nông nghiệp. Thời gian qua, có nhiều mô hình nông nghiệp du lịch sinh thái triển khai thành công ở Việt Nam, như du lịch nông nghiệp ở Hội An (tỉnh Quảng Nam); du lịch nông nghiệp tại Ba Vì (thành phố Hà Nội), Tam Đường (tỉnh Lai Châu), Sa Pa (tỉnh Lào Cai)...

Mô hình sản xuất hữu cơ thời gian gần đây cũng được quan tâm. Nhiều mô hình sản xuất nông nghiệp hữu cơ trong trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản được phát triển. Đến nay diện tích sản xuất theo mô hình nông nghiệp hữu cơ ở Việt Nam đạt trên 170 nghìn héc-ta. Một số tỉnh như Lâm Đồng, Đắk Lắk đang phát triển một số mô hình nông nghiệp cảnh quan cho cà phê. Mô hình này cũng kết hợp nhiều nguyên tắc về hiệu quả, đa dạng, địa phương, quản trị xã hội và cũng có tính nhân văn cao. Đây là hướng đi rất quan trọng trong phát triển nông nghiệp sinh thái ở Việt Nam. Đặc biệt với các mô hình cảnh quan bền vững, vai trò doanh nghiệp là rất quan trọng và họ tham gia từ đầu, sẵn sàng bao tiêu sản phẩm cho hộ nông dân.

Trong những năm qua, hợp tác xã nông nghiệp (HTX NN) đã có nhiều chuyển biến tích cực cả về số lượng và chất lượng hoạt động. Nhận thức của chính quyền, người dân về tầm quan trọng của HTX đã từng bước được nâng lên, các HTX NN từng bước trở thành mắt xích quan trọng trong phát triển chuỗi giá trị liên kết sản xuất, chế biến, tiêu thụ nông sản. Đây là tiền đề quan trọng thúc đẩy hình thành các tổ hợp sản xuất, chế biến, tiêu thụ nông sản quy mô vừa và nhỏ tại nhiều vùng sản xuất nông nghiệp hàng hóa tập trung.

Việc Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII ban hành Nghị quyết 20-NQ/TW về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể trong giai đoạn mới đã khẳng định quan điểm Đảng về kinh tế tập thể là thành phần kinh tế quan trọng, phải được củng cố và phát triển cùng kinh tế nhà nước trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Phát triển kinh tế tập thể là xu thế tất yếu trong bối cảnh hội nhập quốc tế, phù hợp với kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Cụ thể hóa Nghị quyết số 20-NQ/TW, Chính phủ ban hành “Nghị quyết về phát triển Hợp tác xã nông nghiệp trong tái cơ cấu ngành nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới”.

Tiếp đó, ngày 20-2-2024, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 182/QĐ-TTg về phê duyệt Đề án Hội Nông dân Việt Nam tham gia phát triển kinh tế tập thể trong nông nghiệp đến năm 2030. Đề án đã đặt mục tiêu đến năm 2025, tư vấn, hỗ trợ thành lập mới ít nhất 250 HTX, 1.500 tổ hợp tác (THT) trong nông nghiệp; củng cố, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động cho ít nhất 750 HTX nông nghiệp do các cấp Hội Nông dân tuyên truyền, vận động, hướng dẫn thành lập; Thu hút thêm 5% số hộ hội viên nông dân tham gia các tổ chức KTTT trong nông nghiệp; Hỗ trợ ít nhất 10% số chi Hội Nông dân nghề nghiệp, tổ Hội Nông dân nghề nghiệp phát triển thành HTX, THT nông nghiệp; Có ít nhất 30% số HTX nông nghiệp do Hội Nông dân hỗ trợ thành lập tham gia liên kết sản xuất, kinh doanh với doanh nghiệp và tổ chức kinh tế khác…

Để đạt được những mục tiêu đề ra, các Nghị quyết đưa ra các giải pháp mang tính toàn diện, đồng bộ trong đó yêu cầu xây dựng mô hình HTX nông nghiệp phát triển bền vững, hoạt động hiệu quả, phù hợp với đặc thù từng lĩnh vực, ngành hàng và vùng, miền, địa phương. Mỗi tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương tập trung nguồn lực đầu tư, xây dựng tối thiểu 5 mô hình hợp tác xã nông nghiệp phát triển bền vững, hiệu quả, phù hợp với vùng, miền, địa phương. Ưu tiên hỗ trợ phát triển mô hình HTX nông nghiệp kiểu mới, hoạt động hiệu quả, gắn với vùng sản xuất sản phẩm chủ lực.

Trong thời gian tới, để thúc đẩy sự phát triển mô hình HTX, việc đầu tiên chúng ta tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền để nâng cao nhận thức trong hệ thống chính trị và nhân dân về ý nghĩa, tầm quan trọng của KTTT, HTX trong phát triển nông nghiệp bền vững nói riêng và kinh tế - xã hội; bổ sung, sửa đổi các chính sách hỗ trợ, ưu đãi để thúc đẩy phát triển KTTT, HTX... Tạo điều kiện để các doanh nghiệp trong HTX, doanh nghiệp liên kết với HTX trong việc chế biến, tiêu thụ sản phẩm của HTX được vay vốn từ Quỹ Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa. Tiếp tục huy động, tranh thủ nguồn lực từ các lực lượng xã hội, các tổ chức đoàn thể. Tạo điều kiện và môi trường thuận lợi để các HTX phối hợp với doanh nghiệp, liên doanh, liên kết trong việc cung ứng dịch vụ và bao tiêu sản phẩm hàng hóa. Hỗ trợ các HTX trong các hoạt động xuất khẩu, tìm kiếm thị trường, tham gia các hội chợ, hội chợ triển lãm, chương trình kết nối và tăng cường công tác khuyến công giúp các HTX đầu tư ứng dụng máy móc thiết bị phát triển sản xuất. Hướng dẫn, hỗ trợ các HTX xây dựng phương án sản xuất kinh doanh có hiệu quả, trong đó đa dạng hóa các khâu dịch vụ, chú trọng sản xuất hàng hóa, đưa giống mới có năng suất, chất lượng tốt vào sản xuất, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật để sản xuất theo tiêu chuẩn an toàn. Hỗ trợ, vận động các HTX trong ứng dụng thương mại điện tử, chuyển đổi số vào sản xuất kinh doanh, chủ động chuyển đổi hình thức bán hàng trực tiếp sang trực tuyến; đẩy mạnh xúc tiến thương mại nước ngoài, để tìm đầu ra xuất khẩu, tạo thị trường ổn định phát triển KTTT và các HTX trong tỉnh; phát triển KTTT theo hướng gắn sản xuất, kinh doanh với chuỗi giá trị sản phẩm.

Để thực hiện hiệu quả mục tiêu phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn thì một trong những giải pháp đã được Nghị quyết Đại hội XIII chỉ ra là “tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách thúc đẩy tích tụ, tập trung đất nông nghiệp, khắc phục tình trạng manh mún, tạo điều kiện thu hút đầu tư, ứng dụng cơ giới hóa và công nghệ cao vào sản xuất nông nghiệp”.

Tích tụ, tập trung ruộng đất là một trong những yếu tố tạo điều kiện hình thành nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa lớn trên cơ sở phát huy lợi thế về quy mô do khắc phục tình trạng manh mún ruộng đất, mở rộng diện tích canh tác, tránh lãng phí đất. Hiện nay, sản xuất nông nghiệp “manh mún, nhỏ lẻ, tự phát” là vấn đề lớn mỗi khi nhắc đến hạn chế của nông nghiệp Việt Nam. Đây không chỉ là điều cản trở đến việc áp dụng các tiến bộ khoa học - kỹ thuật, nâng cao năng suất sản phẩm mà còn chính là lực cản làm giảm sức cạnh tranh của các mặt hàng nông sản trên thị trường quốc tế. Sản xuất nông nghiệp manh mún, quy mô nhỏ nên quá trình triển khai thu mua nguyên liệu sản xuất của doanh nghiệp gặp không ít khó khăn.

Bên cạnh đó, vì mang tính tự phát, chủ yếu tự thu hoạch nên năng suất thu hoạch còn hạn chế, đặc biệt là lúc vào chính vụ, không đủ năng lực, nhân lực nên gây khó khăn cho doanh nghiệp. Ngoài ra, tính tuân thủ quy trình trong sản xuất của bà con cũng là vấn đề hạn chế. Một số bà con chưa tuân thủ đồng đều các hướng dẫn nên có vườn đạt tiêu chuẩn, vườn chưa đạt tiêu chuẩn dẫn đến các rủi ro trong xuất khẩu nông sản sang các thị trường.

Cũng chính sự manh mún, nhỏ lẻ, “mạnh ai nấy làm” dẫn đến người bán được hàng, người không. Đây cũng chính là vấn đề dẫn đến chưa tạo ra được nhiều vùng sản xuất lớn để có lợi thế xuất khẩu, nâng cao tính cạnh tranh của mặt hàng nông sản và tăng thu nhập cho người nông dân. Thực tế cho thấy, việc tập trung diện tích lớn đất, cùng áp dụng khoa học - kỹ thuật vào sản xuất đã mang lại những kết quả nổi bật cho ngành Nông nghiệp.

Cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội XIII, Nghị quyết số 19-NQ/TW đã đưa ra nhiều nhiệm vụ và giải pháp quan trọng. Trong đó có giải pháp: "Đẩy mạnh tích tụ, tập trung đất đai; phát triển nông nghiệp theo hướng hiện đại, chuyên canh hàng hóa tập trung, quy mô lớn, bảo đảm an toàn thực phẩm dựa trên nền tảng ứng dụng khoa học - công nghệ tiên tiến, chuyển đổi số, cơ giới hóa, tự động hóa; gắn kết chặt chẽ nông nghiệp với công nghiệp, dịch vụ, sản xuất với bảo quản, chế biến và tiêu thụ nông sản...".

Nghị quyết 19-NQ/TW cũng chú trọng nhiệm vụ sửa đổi, bổ sung chính sách, pháp luật đất đai bảo đảm quản lý, sử dụng bền vững, hiệu quả đất nông nghiệp, thúc đẩy tích tụ, tập trung, sử dụng linh hoạt, hiệu quả đất lúa; khắc phục tình trạng bỏ hoang, làm thoái hóa đất. Tăng đầu tư ngân sách nhà nước giai đoạn 2021 - 2030 cho nông nghiệp, nông thôn ít nhất gấp 2 lần giai đoạn 2011 - 2020. Xử lý triệt để những tồn đọng về đất đai có nguồn gốc từ nông, lâm trường, chấm dứt tình trạng các công ty nông, lâm nghiệp được giao đất, cho thuê đất nhưng không đầu tư, tổ chức sản xuất mà khoán trắng cho hộ gia đình, cá nhân. Khẩn trương hoàn thiện chính sách để mở rộng quy mô, đối tượng tham gia bảo hiểm nông nghiệp, góp phần giảm thiểu rủi ro cho nông dân.

Trên phạm vi toàn xã hội, tích tụ, tập trung ruộng đất sẽ góp phần làm giảm chi phí xã hội, thuận lợi hơn trong việc đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật ở nông thôn (giao thông, hệ thống thủy lợi...). Tích tụ, tập trung ruộng đất sẽ thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng phân công lại lao động trong nông nghiệp và hình thành các vùng chuyên canh sản xuất hàng hóa tập trung, góp phần cải thiện chất lượng và giảm tình trạng suy thoái đất đai do chế độ canh tác hợp lý và do thâm canh, cải tạo đất. Tích tụ, tập trung ruộng đất làm tăng năng suất và hiệu quả sản xuất nông nghiệp.

Thực tế chứng minh rằng, khi quy mô ruộng đất lớn hơn thì năng suất cao hơn. Tuy nhiên, diện tích lớn năng suất cao không đồng nghĩa với diện tích nhỏ, năng suất thấp. Bởi năng suất trong nông nghiệp phụ thuộc vào nhiều yếu tố khách quan và chủ quan, như thời tiết, độ màu mỡ của đất đai, giống cây trồng và vật nuôi mới, phân bón kỹ thuật gieo cấy, thu hoạch và sự chăm sóc của nhà nông...

Tích tụ, tập trung ruộng đất làm giảm chi phí, tăng sản lượng, lợi nhuận và những lợi ích vật chất khác cho người sản xuất. Tích tụ, tập trung ruộng đất cũng là yếu tố giúp hộ gia đình tăng thu nhập, thông qua đầu tư mua máy móc nông nghiệp phục vụ cho sản xuất của gia đình mình, ngoài ra còn cho thuê máy móc hoặc làm dịch vụ nông nghiệp cho các hộ khác... để có thêm thu nhập.

(Còn tiếp)

NCS. Cao Thị Phương

Nguồn Xây Dựng Đảng: http://www.xaydungdang.org.vn/nghi-quyet-va-cuoc-song/ky-3-tao-dong-luc-moi-tu-the-che-chinh-sach-22026