Ký ức Bắc Sơn

Trên dải đất hẻo lánh, lọt thỏm giữa rừng già thôn Quang Thái, làng Khuôn Khát, xã Vũ Lễ, châu Bắc Sơn (nay là xã Vũ Lễ, tỉnh Lạng Sơn) một người đàn ông dân tộc Dao không rõ gốc gác đã lặng lẽ chọn nơi này làm chốn dừng chân. Ông tên là Bàn Tiến Đường. Giờ đây, trong ký ức của những người cao niên nhất, không ai còn nhớ được ranh giới cụ thể của ngôi làng ấy là từ đâu trong những ngày đầu khởi dựng, chỉ biết rằng nơi ấy từng có những nếp nhà tranh chen bên nương ngô, có tiếng khèn ngân trong lễ cưới ba ngày ba đêm…

Trong vùng căn cứ Bắc Sơn xưa, nhiều gia đình treo ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đại tướng Võ Nguyên Giáp cùng nhiều huân, huy chương, Bằng Tổ quốc ghi công... là chứng tích hào hùng của lịch sử đấu tranh cách mạng, của những mất mát, hy sinh

Trong vùng căn cứ Bắc Sơn xưa, nhiều gia đình treo ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đại tướng Võ Nguyên Giáp cùng nhiều huân, huy chương, Bằng Tổ quốc ghi công... là chứng tích hào hùng của lịch sử đấu tranh cách mạng, của những mất mát, hy sinh

Ông Bàn Tiến Đường lập gia đình và sinh được được sáu người con, ba người trai, ba con gái. Người con trai cả của ông - Bàn Quý Hinh lại mang một số phận lạ lùng. Người đời bảo cậu “cao số”, bao lần đi hỏi vợ quanh vùng đều không thành. Trong một lần đi làm xa, tá túc chỗ người quen, ông Bàn Tiến Đường gặp một cô gái Dao hiền lành, chịu khó. Thấy “vừa mắt” làm con dâu mình, ông xin so vía thì hợp số mệnh nên quyết hỏi cưới cho con trai. Dù rất nể Bàn Tiến Đường, nhưng bởi khoảng cách xa xôi, thêm nữa nhà hiếm con, cô gái vốn là đứa trẻ được xin về, gia đình muốn gả chồng gần để dễ bề thăm nom nên từ chối khéo bằng cách thách cưới mười con lợn to, mười chum rượu lớn. Ông Đường vẫn quyết cưới dâu bằng được. Ông gom góp của cải, nhờ vả, huy động tới cả trăm người khiêng sính lễ. Đám cưới rộn ràng suốt ba ngày ba đêm, náo nhiệt và thiêng liêng như một sự kiện trọng đại của cả bản. Đón được dâu về, nhà trai đốt pháo đến cháy cả bồ đựng thóc. Cô dâu ấy chính là Triệu Thị Lưu - người sau này trở thành trụ cột tinh thần của cả gia tộc giữa những năm tháng đầy bi thương của lịch sử. Từ cuộc hôn nhân này, một thế hệ người Dao gắn bó máu thịt với cách mạng đã ra đời.

Bàn Quý Hinh và Triệu Thị Lưu sinh được sáu người con, ba trai, ba gái. Người con trai thứ hai tên là Bàn Dầu Châm, sau này trở thành nhân chứng sống cho cả một bi kịch lịch sử.

Dưới ách đô hộ của thực dân Pháp cuối thế kỷ XIX, Nhân dân Bắc Sơn phải gánh đủ mọi loại sưu thuế. Ngoài thuế thân (thuế áp theo đầu người từ mười tám đến sáu mươi tuổi), thuế điền (thuế ruộng) ra thì còn phải đóng thuế thổ trạch, thuế rừng, thuế chợ thậm chí là thuế muối với chính sách dùng muối để xử phạt người chống đối. Đã vậy, “Dưới chế độ ngày càng tàn nhẫn dã man, dân nghèo châu Bắc Sơn lại còn gánh thêm tội đi phu, đi phu không lương là một chế độ bóc lột ghê gớm, đè nén dã man, vô nhân đạo, liên tiếp bi thương, cay đắng” - (Thông báo của Xứ ủy Bắc Kỳ ngày 9/6/1930). Về mặt chính trị - xã hội, thực dân Pháp thực hiện âm mưu chia để trị, cố ý tạo nên sự khác biệt đối xử, kích động hiềm khích giữa Nhân dân các dân tộc Bắc Sơn. Chúng thi hành chính sách ngu dân, khiến cho 95% mù chữ. Bên cạnh hệ thống chính trị, thực dân Pháp đặt ra hệ thống quân sự với châu đoàn, bên dưới là tổng đoàn, xã đoàn chỉ huy lực lượng lính dõng, tuần phiên và chúng câu kết với nhau để dễ bề đàn áp.

Trước chính sách hà khắc của chính quyền thực dân phong kiến, đại bộ phận Nhân dân lao động căm phẫn tột độ, sẵn sàng đứng về phía lợi ích của dân tộc để đấu tranh. Ngay từ năm 1885, khi vua Hàm Nghi hạ chiếu Cần Vương, phong trào chống Pháp đã dấy lên rầm rộ trọng cả nước, lan tới Bắc Sơn bằng việc Nhân dân nhiệt liệt ủng hộ cuộc khởi nghĩa của thủ lĩnh Hoàng Đình Kinh ở vùng Hữu Lũng, Bắc Sơn. Và sau đó là tiếp tục ủng hộ sức người sức của cho các đạo quân của Hoàng Hoa Thám, Lâm Trung Lập… Mặc dù các cuộc khởi nghĩa đều bị đàn áp khốc liệt, nhưng ngay sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (3/2/1930), Bắc Sơn lại là một trong những địa điểm quan trọng được lựa chọn để chỉ đạo, củng cố phong trào cách mạng.

Tinh thần yêu nước, ý chí đấu tranh quật cường của người dân Bắc Sơn đã khiến kẻ thù phải nâng cao cảnh giác. Ở Bắc Sơn, thực dân Pháp xây dựng một hệ thống đồn bốt dày đặc. Ngay từ năm 1893 chúng đã cho xây dựng Đồn Mỏ Nhài, Đàng Lang. Trong thời kỳ phong trào cách mạng ở Bắc Sơn phát triển, đặc biệt là sau cuộc khởi nghĩa ngày 27/9/1940 và cuộc biểu tình, mít tinh ngày 28/10/1940 tại trường Vũ Lăng, chúng lại đặt thêm một số đồn bốt nữa như đồn Quang Thái, Nam Nhi, bốt Bắc Bãi, Tam Canh, đồn xã Vũ Lễ. Ngoài ra, chúng còn lập trại tập trung ở xã Chiêu Vũ, dùng mật thám để theo dõi, rình bắt các chiến sĩ cách mạng. Từ sau cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn, ở đây có riêng một chi nhánh mật thám đặt dưới sự chỉ huy của Sở mật thám Bắc Kỳ.

Sau khi đàn áp cuộc mít tinh của Nhân dân Bắc Sơn ở trường Vũ Lăng, thực dân Pháp đẩy mạnh khủng bố phong trào cách mạng, sục sạo khắp các xã Vũ Lăng, Vũ Lễ, Chiêu Vũ, Ngư Viễn… để lùng bắt cán bộ, khủng bố Nhân dân, hòng tiêu diệt du kích Bắc Sơn. Hành động điên cuồng của thực dân Pháp gây nhiều khó khăn cho phong trào cách mạng nhưng dưới sự lãnh đạo của Trung ương và Xứ ủy Bắc Kỳ, sự cổ vũ của phong trào cách mạng trong cả nước, phong trào cách mạng ở Bắc Sơn ngày càng phát triển mạnh mẽ, khu du kích Bắc Sơn được mở rộng nối liền với Võ Nhai và một phần với Đồng Hỷ, Phú Bình (Thái Nguyên). Đầu năm 1941, Xứ ủy Bắc Kỳ phân công các đồng chí Lương Văn Tri, Hoàng Văn Thái, Bùi Thống… lên chỉ đạo, củng cố lựng lượng du kích và xây dựng căn cứ địa Bắc Sơn - Võ Nhai. Phong trào tập luyện quân sự lan khắp các xóm, thôn. Khe rừng Khuổi Nọi, Phú Thượng, Lâu Thượng, Bản Ít, Tràng Xá trở thành trung tâm huấn luyện của du kích và tự vệ, tinh thần chiến đấu của nhân dân Bác Sơn như được tiếp thêm sức mạnh.

Tháng 2/1941, đoàn đại biểu của Đảng gồm các đồng chí Trường Chinh, Hoàng Văn thụ, Hoàng Quốc Việt, Trần Đăng Ninh đi dự Hội nghị Trung ương lần thứ 8 ở Pác Bó (Cao Bằng) do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc triệu tập đã dừng chân tại Khuổi Nọi (Vũ Lễ). Tại đây, đồng chí Hoàng Văn Thụ, Bí thư Xứ ủy Bắc Kỳ đã phổ biến cho toàn thể cán bộ, đảng viên của Đảng bộ Bắc Sơn về quyết định của Trung ương, đổi tên Đội du kích Bắc Sơn thành Đội Cứu quốc quân Bắc Sơn - đội quân vũ trang cách mạng đầu tiên do Đảng lãnh đạo. Ngày 23/2/1941. Đội Cứu quốc quân Bắc Sơn làm lễ chính thức thành lập ở rừng Khuổi Nọi. Căn cứ của Cứu quốc quân Bắc Sơn nằm ở đầu nguồn con suối Khuổi Nọi, trong cánh rừng Tam Tấu, cách con đường quốc lộ 1B chừng ba ki lô mét. Nhiệm vụ đầu tiên Trung ương Đảng giao cho Đội Cứu quốc quân Bắc Sơn ngay sau khi thành lập là đưa đường, bảo vệ các đồng chí cán bộ lãnh đạo của Đảng đi dự Hội nghị Trung ương lần thứ 8. Từ ngày 10 đến ngày 19/5/1941, Hội nghị Trung ương lần thứ 8 được tổ chức tại Pác Bó - Cao Bằng. Hội nghị đã đề ra nhiều chủ trương quan trọng cho cách mạng, trong đó có nhiệm vụ tăng cường củng cố Đội Cứu quốc quân Bắc Sơn, phát triển căn cứ địa Bắc Sơn - Võ Nhai.

Theo kế hoạch đã định, nhân ngày Quốc tế lao động 1/5/1941, Đảng bộ Bắc Sơn và Ban Chỉ huy Đội Cứu quốc quân tổ chức mít tinh đồng thời ra mắt Đội Cứu quốc quân Bắc Sơn tại Khuổi Nọi. Ngay sau sự kiện này, Đảng bộ Bắc Sơn bắt tay vào kế hoạch chuẩn bị đón, bảo vệ các đồng chí cán bộ Trung ương đi dự Hội nghị Trung ương 8 trở về. Nhưng hành trình bị bại lộ. Khi đoàn về đến Bình Gia đã thấy dấu hiệu của một cuộc khủng bố lớn. Khắp các ngả đường từ Bình Gia vào Bắc Sơn đều thấy có lính dõng và mật thám đi tuần tra, canh gác. Tối 23/6/1941, đoàn cán bộ Trung ương gồm các đồng chí Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ, Hoàng Quốc Việt, Phùng Chí Kiên… về tới Lân Pán (xã Tân Lập) nhưng để đảm bảo an toàn, ngay lập tức tiếp tục được đưa đến cơ sở ở Khuổi Cướm (Mỏ Pia - xã Tân Lập). Vừa nắm tình hình, chỉ đạo hoạt động, đoàn vừa tiếp tục di chuyển, thay đổi địa điểm sang Lân Táy, Lân Riều, Nà Cái, Pò Luồng rồi lại về Lân Nậm, Lân Rảo. Tuy nhiên, bọn phản động đã “đánh hơi” và lần theo dấu vết của đoàn công tác. Tại đây, nhận thấy dấu hiệu bại lộ, Đảng bộ Bắc Sơn tiếp tục đưa các đồng chí cán bộ trung ương đến cơ sở ta ở Sa Khao (xã Vũ Lăng).

Không khuất phục được Nhân dân giao nộp cán bộ, ngày 25/7/1941, thực dân Pháp mở cuộc khủng bố quy mô lớn vào căn cứ Bắc Sơn - Võ Nhai. Chúng đi tới đâu, đóng đồn bốt tới đó, chia từng khu rừng, từng làng xã để càn quét, bắt người, cướp của, đốt phá nhà cửa, uy hiếp tinh thần Nhân dân. Ngày 27/7/1941, chúng tấn công vào căn cứ Mỏ Pia. Không bắt được các đồng chí Ủy viên Trung ương Đảng, địch khủng bố quần chúng để trả thù. Một cuộc bắt bớ, tàn sát diễn ra ngay tại đây. Tất cả già trẻ, gái trai thôn Mỏ Pia bị bắt đi giam tại nhà tù Đàng Lang (Quỳnh Sơn). Những chiến sĩ cách mạng bị chúng tra tấn, giam cầm và sau này, không ai sống sót trở về.

Tại Vũ Lễ, quân Pháp bắt phần lớn Nhân dân ở các thôn Nà Cái, Bản Ít. Nhận thấy dấu hiệu của mầm sống cách mạng trong cánh rừng Khuổi Nọi, thực dân Pháp kéo quân lên Khuôn Khát. Ngôi làng nhỏ bé không có một lực lượng tự vệ nào đủ sức chống lại. Giặc đến như bão rừng, chúng đốt phá, hủy hoại từng mái nhà, vơ vét của cải. Đàn ông trong làng bị chúng xiên dây thép qua lòng bàn tay, bắt mang đi trong đau đớn. Lửa đỏ rực trời Khuôn Khát.

Cuộc thảm sát mười sáu nóc nhà đồng bào Dao làng Khuôn Khát năm ấy mãi mãi trở thành một dấu mốc đau đớn, căm hờn trong lịch sử đấu tranh cách mạng Bắc Sơn.

Bàn Dầu Châm - thế hệ tiếp nối giữa tro tàn

Triệu Thị Lưu - chính người phụ nữ này nhận nhiệm vụ tiếp tế lương thực cho cán bộ, du kích cách mạng ngày hôm ấy - ngày bọn Pháp kéo quân lên Khuôn Khát. Từ rừng sâu trở về, bà thấy lửa cháy ngút trời, những tiếng quát tháo, những tiếng thét hờn căm vọng vang vào vách đá. Có biến rồi. Bà khựng lại. Từ trong lùm cây rậm rạp, bà nhìn rõ căn nhà mình đã bị lửa thiêu rụi. Dân làng bị đánh đập, bị dồn vào thành một đám, quần áo bê bết máu, đau đớn và hoảng loạn. Tim bà như bị ai bóp nghẹt khi nghĩ đến chồng, các con trai, con gái của bà… Bất chợt, một ý nghĩ lóe lên rất nhanh: “Bàn Dầu Châm, thằng con thứ hai. Hôm nay Dầu Châm mang trâu đi chăn ở rừng xa…”. Bà băng qua khu vườn chạy ngược trở vào rừng thì đụng phải hai cô gái nhỏ là Bàn Thị Tam và Bàn Thị Tứ đang trốn sau một bờ đất. Bà ngay lập tức ra hiệu cho các con bò về phía mình và ba mẹ con băng rừng chạy trốn. Vòng qua con dốc nhỏ, y như rằng họ gặp Bàn Dầu Châm, anh cũng đang lao về làng khi nghe được những tiếng kêu cứu từ bà con. “Không được!...”. Bà Lưu lắc đầu. Nhìn ánh mắt thất thần của mẹ, Bàn Dầu Châm khựng lại. Sau khi trao đổi rất nhanh, cả bốn mẹ con dắt díu nhau chạy.

Chạy! Chạy! Chạy!... Họ cứ thế lao đi, băng rừng, vượt suối, xuyên đêm. Chạy và chạy thật nhanh, như thể chỉ một thoáng chậm lại là cái chết kề bên. Họ chạy trong bóng tối mịt mùng, rừng núi bủa vây. Họ chạy trong đói khát, hoảng loạn, bộ quần áo duy nhất trên người rách tươm, rướm máu... Đến Nhất Tiến, họ hầu như kiệt sức. May mắn thay, một gia đình người họ hàng, bất chấp nguy hiểm, đã mở lòng cưu mang ba mẹ con, chia sẻ cho họ những điều kiện tối thiểu để níu giữ mạng sống.

Vậy là gia đình ông Bàn Quý Hinh tan tác trong chớp mắt. Bà Triệu Thị Lưu tay trắng, dựa vào sự cưu mang của họ hàng, nuôi ba người con. Họ sống trong nơm nớp lo sợ cho đến ngày cách mạng Tháng Tám thành công, mới lóe lên tia hy vọng về một tương lai lâu dài hơn. Cũng có lần, Dầu Châm cùng mẹ liều mình trở về Khuôn Khát nhưng làng không còn gì cả. Cây đã mọc xanh trên những nền nhà thấm máu khi xưa. Mười sáu nóc nhà, mười sáu mái ấm, hơn một trăm nhân khẩu chỉ còn trong ký ức. Nghe kể, giữa tro tàn ngày hôm ấy, một bà già trong họ khều được bát hương cháy dở và một ống tre, bên trong còn sót lại mười lăm bức tranh thờ. Biết mẹ con Dầu Châm dắt nhau tìm về làng Khuôn Khát, một gia đình gần đó gọi đến, trả lại con trâu cày chạy lạc mà họ đã giữ lại nuôi và cày ruộng cho nhà họ mấy năm nay. Dắt con trâu ấy về đến Nhất Tiến, các thêm con lợn gần bốn mươi cân, bà Lưu đem đổi được bốn sào ruộng. Trong hoàn cảnh rất éo le lúc đó, bà Lưu quyết định phải tìm người để dựa vào. Dương Chòi Sình - người đàn ông dang tay giúp đỡ, cũng chính là người đứng ra làm bốn đám ma "khô" cho ông Bàn Quý Hinh chồng bà Lưu, ông Bàn Quý Minh em trai ông Hinh và hai con trai của bà Lưu là Bàn Dầu Châu, Bàn Dầu Hang. Họ bị quân Pháp bắt đi cùng rất nhiều người dân trong vụ thảm sát ở làng Khuôn Khát và không ai sống sót trở về. Nghi lễ đám ma là nghi lễ thiêng liêng cuối cùng trong vòng đời của một người Dao, quan trọng và tốn kém. Bà Lưu cả đời biết ơn ông Chòi Sình vì lẽ đó.

Bàn Dầu Châm lấy vợ, gây dựng cuộc đời trong nghèo khó, mất mát, nhưng cũng trong tình yêu thương, trong những lời mẹ dặn về lòng trung hiếu, về sự thật, và về tội ác của kẻ thù. Ông chẳng bao giờ quên cái ngày lửa trùm lên Khuôn Khát, tiếng dân làng gào khóc trong vô vọng và ánh mắt dại đi của mẹ. Ông sinh được tám người con thì nuôi lớn được năm - ba trai, hai gái - đều được ông cho ăn học trong hoàn cảnh rất khó khăn. Cũng từ khi có cháu gọi bằng bà nội, mỗi đêm giao thừa, như một nghi lễ bất di bất dịch, bà Lưu lại kể cho các cháu và sau này là cả các chắt về câu chuyện đau xé lòng năm xưa. Bà không muốn ai được phép quên đi những tháng ngày đen tối đó. Mỗi lần kể là một lần khóc nghẹn. Nhưng với bà, nước mắt cần được chảy xuống để nuôi dưỡng cho những khát vọng bay lên. Sau khi mất, bà Triệu Thị Lưu được truy tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng.

Bàn Dầu Châm sống trọn một đời lặng lẽ, truyền ngọn lửa của khát vọng sống không bao giờ tắt từ người mẹ cho các con trai, con gái của mình. Một trong những người con của ông - Bàn Nho Hiển - lớn lên, cả đời theo cách mạng với hai mươi nhăm năm làm Chủ tịch Ủy ban nhân dân, năm năm làm Chủ tịch Hội đồng nhân dân xã Nhất Tiến.

Bàn Nho Hiển và những nỗ lực hiện thực hóa khát vọng độc lập - tự do - hạnh phúc

Ở Nhất Tiến, ông Hiển là người cán bộ có uy tín lớn trong vùng. Người đàn ông này mang trong huyết quản không chỉ dòng máu đỏ của người Dao mà còn là ký ức không bao giờ quên của bà nội ông, ký ức về những linh hồn mãi mãi ở lại nơi rừng sâu Khuôn Khát.

Ông Bàn Nho Hiển cầm trên tay cuốn sổ nhỏ, nơi tự tay ông ghi chép câu chuyện về dòng họ mình

Ông Bàn Nho Hiển cầm trên tay cuốn sổ nhỏ, nơi tự tay ông ghi chép câu chuyện về dòng họ mình

Tôi gặp ông Bàn Nho Hiển vào một ngày thu ở xã Nhất Tiến. Câu chuyện gợi lại như một đám mây đen đè nặng trong ký ức.

“Bà nội tôi, bà Triệu Thị Lưu, năm nào cũng thế, cứ đêm giao thừa là gọi con cháu đến ngồi quanh bếp lửa để nghe bà kể chuyện cũ. Bà thắp hương lên bàn thờ xong, là vừa kể vừa khóc. Tôi nhớ có lần bố tôi bảo, chuyện đã thế rồi, bà kể mãi làm gì. Nhưng bà bảo còn sống ngày nào, bà còn kể. Để con cháu biết tổ tiên mình đã sống sót như thế nào giữa rừng núi này”.

Ông Hiển vừa nói, vừa lật giở cuốn sổ nhỏ, nơi chính ông tự tay ghi chép lại câu chuyện về dòng họ mình. Người đàn ông dân tộc Dao đã bảy mươi bảy năm tuổi đời, bốn mươi bảy năm tuổi Đảng, từng có hai mươi nhăm năm làm Chủ tịch Ủy ban nhân dân, năm năm làm Chủ tịch Hội đồng nhân dân xã, nhưng trong khoảnh khắc ấy, khi nhắc đến bà nội, ông giống như một đứa trẻ đang sống lại giây phút tuổi thơ, lặng lẽ, xúc động, đầy kính phục.

Ông chỉ tay ra ngoài cửa, bảo tôi: “Cây gạo to kia, cây gạo ở ngay ven đường làng kia là do chính tay thầy giáo của tôi trồng. Một mình thầy được cách mạng phân công về đây dạy học, bố tôi đón thầy về nhà tôi ở. Lớp học hôm nào đông đủ, cũng chỉ có dăm, bảy đứa trẻ người Dao. Nhiều hôm chỉ có một mình tôi…”.

Bàn Nho Hiển là con trai thứ hai, nhưng vì con trai đầu yểu mệnh, nên Nho Hiển trở thành con cả. Khi ông Dầu Châm sinh thêm con trai là Bàn Nho Lý, Thượng tướng Chu Văn Tấn (khi đó là Bí thư Khu ủy Việt Bắc) đã nhắn ông Dầu Châm, cho một thằng con xuống ở với ông để ông nuôi ăn học. Nhưng ông Dầu Châm đã chọn giữ các con lại bên mình, như giữ những cây non cho vững cành, ấm cội. Con trai vừa tròn mười tám tuổi, ông Dầu Châm liền cưới vợ cho con. Nho Hiển sinh được bảy người con, bốn trai, ba gái.

“Tôi tham gia vào công tác ở xã, được kết nạp Đảng, rồi làm Chủ tịch xã Nhất Tiến liền năm khóa. Trong những năm còn công tác, tôi có hai lần đi tìm gặp ông cán bộ cấp tỉnh cùng là người Dao, ông Đặng Tăng Phúc - Trưởng Ban định canh định cư của tỉnh để nhờ giúp đỡ. Lần đầu là việc mở đường vào xã. Tôi đã thỏa thuận với bà con góp công, tôi muốn được Nhà nước hỗ trợ. Ông Đặng Tăng Phúc, sau khi nghe tôi trình bày, thì không biết còn gặp gỡ, bàn bạc với những sở, ngành nào, nhưng rồi Nhà nước cho xe, cho máy móc về xã hỗ trợ chúng tôi. Ngày làm đường, tất cả già trẻ gái trai ở Nhất Tiến này đều góp công góp sức, không thiếu một ai. Lần thứ hai là khi chúng tôi có ít kinh phí, cùng với dân góp sức, tính làm hai dãy phòng học cho học sinh, mà không đủ tiền mua tấm lợp. Hôm đó tôi ra huyện họp, họp xong ngủ nhờ ở nhà người quen hôm sau bắt xe lên tỉnh gặp ông Phúc. Trong túi chỉ có ba chục đồng, vé xe hết mười đồng. Gặp ông Phúc, ông đưa tôi ra chợ ăn cơm, rồi đưa sang Sở Giáo dục, gặp một đồng chí nữ để tôi trình bày nguyện vọng. Tôi về, ông Phúc đi gặp ai nữa thì tôi không rõ. Sau đó xã được cấp kinh phí, mua được năm trăm bốn mươi tấm lợp, đủ lợp hai dãy phòng học cho học sinh… Cái thời của tôi khó khăn như thế đó. Bây giờ thì khá rồi. Nhất Tiến có điện có đường, có trường, trạm khang trang. Từ khi biết trồng rừng thì bà con hết khổ…”

Câu chuyện của chúng tôi cứ thế cuộn trôi trong dòng ký ức của ông Bàn Nho Hiển. Thỉnh thoảng có quãng ông quên, bà Bàn Thị Tam - em gái ông Hiển (tên bà giống tên người cô ruột), nguyên Phó Chủ tịch Hội Phụ nữ huyện Bắc Sơn - lại nhẹ nhàng nhắc nhớ, làm cho câu chuyện trở nên liền mạch hơn. Hôm ấy, tôi không gặp được Bàn Nho Quý, người con trai út của ông Bàn Dầu Châm, nay là Hiệu trưởng trường tiểu học xã Nhất Hòa. Nếu có thêm anh Quý, chắc câu chuyện lại được nối dài thêm.

“Người ta thường hỏi tôi, vì sao cả đời theo cách mạng, bao nhiêu năm làm Chủ tịch xã không nề hà. Tôi chỉ có thể đáp rằng, bởi vì tôi vẫn cõng theo trên lưng ký ức của một ngôi làng bị thiêu cháy…” - Bàn Nho Hiển, trầm giọng, xa xăm.

Tôi rời nhà ông Bàn Nho Hiển trong buổi chiều rực sáng. Trời xanh trong, nắng chảy tràn trên những mái nhà vững chãi, yên bình. Giữa khung cảnh ấy, tôi bất giác hình dung ngược về cảnh tượng đêm giao thừa buốt lạnh, bên bếp lửa, tiếng củi nổ lách tách, mùi khói hương ngai ngái, một người già chậm rãi kể câu chuyện về một ngôi làng bị thiêu rụi, một gia đình ly tán, một dòng họ lưu lạc… tất cả dồn nén thành ký ức không thể xóa nhòa. Chính ký ức ấy đã hóa thành sức mạnh, thành nguồn sống để những người con Bắc Sơn qua máu lửa vẫn vững vàng và để chúng ta hiểu rằng tự do, hạnh phúc ngày hôm nay đáng quý biết nhường nào.

VI THỊ THU ĐẠM

Nguồn Lạng Sơn: https://baolangson.vn/ky-uc-bac-son-5059631.html