Ký ức dầu khí - Kỳ 4: Tiếp cận công nghệ

PetroTimes trân trọng giới thiệu bài viết 'Ký ức dầu khí' của GS.TSKH Mai Thanh Tân - một người thầy, một nhà khoa học, một chứng nhân suốt sáu thập kỷ gắn bó với hành trình tìm dầu của đất nước. Bằng lối kể chuyện dung dị nhưng sâu sắc, tác giả dẫn dắt bạn đọc trở về những năm tháng sơ khai của ngành dầu khí Việt Nam - nơi có khoa học và lý tưởng, gian nan và khát vọng, tuổi trẻ và tình yêu. Bài viết không chỉ là hồi ức cá nhân mà còn là một lát cắt lịch sử sống động, mang đến cảm nhận chân thực về một ngành công nghiệp đã và đang góp phần thay đổi diện mạo đất nước.

Vào Nam

Sau ngày đất nước thống nhất, công tác tìm kiếm thăm dò dầu khí được mở rộng trên thềm lục địa phía Nam. Trước đó, chính quyền Sài Gòn cùng một số công ty dầu khí nước ngoài cũng đã triển khai tìm kiếm thăm dò dầu khí và xác định được các bể trầm tích như Nam Côn Sơn, Cửu Long, Malay - Thổ Chu. Các công ty Pecten, Mobil đã khoan một số giếng khoan và xác định sự tồn tại dầu khí.

Năm 1977, tôi được vào Sài Gòn và có dịp đến trụ sở của Công ty Dầu khí miền Nam ở số 27 đường Bạch Đằng. Ở đó, tôi được biết trước năm 1975 đã có nhiều người ở đây gắn bó với ngành dầu khí như các ông Nguyễn Văn Vĩnh, Phí Lệ Sơn..., sau năm 1975 có các cán bộ ngành dầu khí từ miền Bắc như các ông Nguyễn Ngọc Sớm, Lê Quang Trung, Nguyễn Giao, Trần Ngọc Toản, Hồ Đắc Hoài, Ngô Thường San, Trương Thiên, Lê Văn Cự... đã vào tiếp quản gần như toàn bộ tài liệu thăm dò dầu khí từ Tổng cuộc Dầu hỏa và Khoáng sản của chính quyền Sài Gòn tại số 2 đường Nguyễn Bỉnh Khiêm. Cùng năm đó, Công ty Dầu khí miền Nam được thành lập do ông Lê Văn Cự làm Giám đốc với Đoàn 21 khảo sát địa chất do ông Lê Quang Trung làm Đoàn trưởng đóng ở Vũng Tàu và Đoàn 22 do ông Trương Minh làm Đoàn trưởng khảo sát địa vật lý đóng ở Cần Thơ.

Thời gian mới giải phóng, mọi việc đang ngổn ngang nhưng công tác thăm dò dầu khí rất được chú trọng. Nhiều tướng tá quân đội được điều sang ngành dầu khí trực tiếp đốc thúc mọi công việc theo tác phong lính chiến như Trung tướng Đinh Đức Thiện, Trung tướng Nguyễn Hòa, Thiếu tướng Tô Ký, Đại tá Phan Tử Quang, Đại tá Trần Sanh... Cũng nhờ thế mà mọi công việc được triển khai nhanh chóng, kể cả việc chuyển trụ sở làm việc của Công ty Dầu khí về tòa nhà Đại sứ quán Mỹ ở số 7 Mạc Đĩnh Chi.

Làm việc tại Công ty Dầu khí miền Nam, ngoài anh em từ miền Bắc vào cũng có một số cán bộ cũ còn ở lại, khi tiếp xúc tôi thấy họ rất khiêm nhường và trong câu chuyện bao giờ cũng có câu "Dạ thưa...". Chúng tôi được ông Ngô Thường San, lúc đó là Trưởng Phòng Kỹ thuật hướng dẫn tham khảo tài liệu và tổ chức đi khảo sát thực địa thăm dò địa chấn ở khu vực miền Tây Nam Bộ. Lần đầu tiên được tới vùng bưng biền Đồng Tháp, được gặp các anh chị đang lăn lộn với công việc ở đây như các anh Trương Minh, Võ Long, Nguyễn Đăng Liệu, Đỗ Chí Hiếu, Lương Đức Hảo...

Chúng tôi được lên con tàu khảo sát địa chấn Gemeaux của Công ty CGG (Pháp) thiết kế hiện đại với các thiết bị tinh xảo để thu nổ địa chấn nhằm khảo sát đến độ sâu đến 3-4 km. Lên tàu, mấy anh an ninh nhắc nhở phải bảo vệ tài liệu, có gì bí mật phải báo cáo để cất giữ cẩn thận. Các anh dặn dò là phải nhưng có biết đâu các băng địa chấn phải xử lý bằng thiết bị máy tính chứ "người trần mắt thịt" thì làm sao mà đọc được. Những lần khảo sát trên sông, sau mỗi lần phát sóng địa chấn là dân hai bờ đem rổ ra vớt cá, mấy anh cấp dưỡng trên tàu thường chỉ vợt những con cá lớn để vào bữa ăn cũng thoải mái, chẳng bù nhiều năm đi sơ tán của Trường Đại học Mỏ - Địa chất lúc nào cũng thấy đói. Đây là lần đầu tiên tôi được lên tàu khảo sát, mở đầu những chương trình thăm dò rộng lớn trên thềm lục địa vào những năm sau này của ngành dầu khí.

Tiếp cận công nghệ

Năm 1978, lần đầu tiên Trường Đại học Mỏ - Địa chất nhận được thiết bị xử lý tài liệu thăm dò địa chấn ΠCZ-4 cùng với trạm đo địa vật lý trong giếng khoan POISK1-24 do Liên Xô viện trợ và đặt trong khuôn viên của trường tại nhà A5 Đại học Bách khoa. Việc sử dụng có sự phối hợp của cán bộ Trường Đại học Mỏ - Địa chất (Phạm Quang Quý, Phạm Năng Vũ, Mai Thanh Tân, Đặng Hữu Trung...) và ngành dầu khí (Lê Văn Hùng, Phạm Kim Trung, Trần Văn Thanh...). Loại thiết bị này xử lý các băng địa chấn thu được từ thực địa, biến đổi tín hiệu để cho ra các lát cắt địa chấn. Lần đầu tiên chúng tôi được làm quen với quá trình xử lý thực hiện theo nguyên tắc sử dụng hệ "nhị phân" sử dụng số 0 và số 1. Tuy nhiên, khác với công nghệ số hiện đại sau này, lúc đó phải tiến hành trên các băng đục lỗ.

Để hỗ trợ các tính toán phức tạp mất nhiều thời gian trong xử lý, chúng tôi cũng được sử dụng máy tính MINSK-22 của Ủy ban Khoa học Nhà nước đặt ở khu vực đồi thông phố Đội Cấn. Đây là loại máy tính thế hệ 2 có tốc tính khoảng 6.000 phép tính/giây. So với các thế hệ máy tính hiện nay dùng mạch tích hợp lớn có các bộ xử lý song song với các phần mềm có tốc độ hàng triệu phép tính trong một giây thì không đáng là gì, nhưng lúc đó đã là quá tốt.

Chính từ các thiết bị này mà chúng tôi học được các nguyên tắc cơ bản của xử lý số liệu từ các bước hiệu chỉnh tín hiệu, sử dụng các bộ lọc, xác định tốc độ truyền sóng trong môi trường phức tạp... Lúc đó, anh em thường nói vui là để bắn trúng máy bay Mỹ bộ đội tên lửa phải định vị được tọa độ, hướng, tốc độ của máy bay, tuy nhiên thuận lợi là môi trường không khí đồng nhất. Trong thăm dò địa chấn, dù đối tượng nằm yên nhưng tốc độ truyền sóng lại thay đổi phụ thuộc vào các loại đá khác nhau trong môi trường địa chất phức tạp, vì vậy xác suất thành công không cao.

Khi tiếp nhận các thiết bị này, được sự giúp đỡ của chuyên gia, chúng tôi cố gắng tìm hiểu và tiếp thu được nhiều điều làm cơ sở cho quá trình phát triển công nghệ hiện đại hơn sau này. Hiện nay, bộ máy ΠCZ-4 được lưu giữ ở Bảo tàng Dầu khí đặt tại tòa nhà Viện Dầu khí Việt Nam, phố Trung Kính (Hà Nội) như một dấu mốc quan trọng trong quá trình phát triển của ngành.

Ngành dầu khí đã cử các cán bộ như Trương Minh, Nguyễn Đức Tuấn, Nguyễn Trí Liễn... sang Pháp tiếp nhận được trạm địa chấn SN-338B và thiết bị xử lý số liệu CAS-48, đặt cơ sở xử lý ở số 23 phố Nguyễn Đình Chiểu với sự tham gia của nhiều anh em như Nguyễn Mạnh Huyền, Nguyễn Văn Toán, Nguyễn Đại Khiêm...

Khi tiếp quản sân bay Tân Sơn Nhất, ta đã tiếp thu các máy tính IBM 360/40 và 360/50 của Mỹ. Đây là loại máy tính có hiệu suất lớn nhất khu vực lúc bấy giờ. Trước năm 1975, loại máy tính này được dùng để xử lý số liệu hậu cần đồ sộ và chỉ huy không quân trên cả khu vực Đông Nam Á. Kết hợp với Trung tâm Toán - Máy tính của Tổng cục Kỹ thuật Quân đội, cơ sở xử lý số liệu dầu khí Việt Nam được đặt ở sân bay Tân Sơn Nhất.

Với sự giúp đỡ của chuyên gia Liên Xô, đội ngũ cán bộ kỹ thuật trẻ của Việt Nam đã khai thác máy tính IBM phục vụ xử lý số liệu địa chấn. Các anh như Phan Quốc Việt, Trần Đức Chính, Nguyễn Cao, Phan Tiến Viễn... do anh Hà Quốc Quân làm tổ trưởng đã gắn bó với trung tâm xử lý này từ những ngày đầu. Mặc dù không được trang bị máy tính song hành (Array Processor) nên tốc độ có bị hạn chế so với các trung tâm xử lý ở nước ngoài, nhưng đây là một quyết định đúng. Việc thử nghiệm cài đặt hệ thống phần mềm xử lý số liệu COCT-1M của Liên Xô có hệ điều hành OS EC trên máy tính IBM của Mỹ vốn có hệ điều hành OS IBM đã thành công. Có lẽ đây là một sự sáng tạo rất "Việt Nam", phù hợp với hoàn cảnh phải sử dụng thiết bị của nhiều nước khác nhau. Với công suất sử dụng máy tính 24/24, nhiều thuật toán phức tạp trước đây mất rất nhiều thời gian thì bây giờ có thể hoàn thành trong giây lát.

Anh em cán bộ kỹ thuật làm việc trong sân bay hàng ngày về ăn nghỉ ở Trạm 66 của Bộ Quốc phòng trên đường Võ Văn Tần. Chúng tôi rất thích thú khi được biết rằng trước kia nơi đây từng là địa điểm làm việc của Cục Tình báo Trung ương Mỹ ở Sài Gòn. Sau này có dịp vào Sài Gòn công tác, tôi được anh em bố trí cho ở khách sạn Victory của quân đội ở số 13 Võ Văn Tần, hóa ra lại chính là Trạm 66 năm xưa. Mặc dù là cán bộ giảng dạy của Trường Đại học Mỏ - Địa chất, nhưng anh em dầu khí coi tôi như cán bộ trong ngành, thậm chí tôi còn được hưởng một vài loại tem phiếu theo tiêu chuẩn thời bao cấp như anh em khác. Đây cũng là tiền đề khi Trung tâm Xử lý số liệu dầu khí "Golden Processing Center" (PGPC) hợp tác giữa Công ty Fairfield (Mỹ) và Petrovietnam ra đời vào năm 1996 tại thành phố Hồ Chí Minh. Đây là trung tâm xử lý số liệu hiện đại được trang bị đầy đủ các thiết bị và phần mềm xử lý ngang tầm với các trung tâm khác của thế giới. Lãnh đạo trung tâm về phía Việt Nam là ông Ngô Bá Bạt cùng nhiều cán bộ trẻ khác rất năng động và sáng tạo. Rất tiếc là hiện nay trung tâm này không còn nữa.

Có lẽ những ngày này đã để lại cho tôi nhiều kỷ niệm và sự trưởng thành trong nhận thức về một lĩnh vực mới mẻ đầy hấp dẫn.

Đón xem tiếp kỳ sau...

GS.TSKH Mai Thanh Tân

Nguồn PetroTimes: https://petrovietnam.petrotimes.vn/ky-uc-dau-khi-ky-4-tiep-can-cong-nghe-731565.html