Lại nói về câu 'Ngọa tân thường đảm - Nằm gai nếm mật'
Độc giả Minh Văn hỏi: 'Tôi có đọc bài 'Nên hiểu và dùng thành ngữ 'Nằm gai nếm mật' trên chuyên mục Cà kê chuyện chữ nghĩa, và thấy tác giả giải thích là điển tích thành ngữ 'Nằm gai nếm mật' (gốc Hán Ngọa tân thường đảm; ngọa 臥 = nằm; tân 薪 = củi khô, cỏ gai dùng để đun nấu; thường 嘗 = nếm; đảm 膽 = mật đắng của động vật)', đồng thời dẫn tích Việt vương Câu Tiễn dùng khổ nhục kế để được tin tưởng và phóng thích; khi về nước thì thường nằm trên củi khô, cỏ gai, nếm mật đắng để không quên nỗi nhục bại trận, nuôi chí phục thù.
Tuy nhiên, hôm nay tôi có đọc bài viết của VCĐ, thì ông đưa ra một số điểm không đồng ý, và tôi xin lược trích như sau:
1- Câu chuyện gắn với Việt vương Câu Tiễn không phải điển tích gốc của thành ngữ, đó chỉ là một ví dụ về thành ngữ mà thôi.
2- Chữ tân không có nghĩa là cỏ gai, vì “trong các cây củi có thể có cây có gai, nhưng củi khô không thể nào có nghĩa là có gai [cỏ gai] được”.
3- “Xuất xứ [từ nguyên] của thành ngữ tiếng Việt đúng là từ câu “Ngọa tân thường đảm” nhưng viết chữ “tân” khác, vì “cách làm việc với chữ Hán của người Việt khác”; và xưa kia “thầy đọc và viết chữ mẫu cho học trò cũng từ sách chữ Hán, nhưng theo cách hiểu của thầy [...] còn trò thì lại “vọng âm đoán chữ” [nghĩa] chứ cũng thường không có sách giáo khoa. Thầy - trò mỗi người xê dịch một chút, câu Ngọa tân thường đảm - 臥薪嘗膽 dần chuyển thành ngọa tân 臥辛 (nằm cay) hoặc ngọa tân 臥津 (nằm bờ).
Theo ông VĐC, chữ tân 辛 nghĩa là cay này đúng hơn, vì nó đối chằn chặn với đắng (mật); còn chữ tân 津 nghĩa là bờ, bến tuy xa hơn một chút, nhưng nó cũng dễ dẫn đến nghĩa “nằm bờ, ngủ bụi”, vì là bờ bụi thì nhiều gai hơn là củi khô. Nếu hiểu “ngọa tân” 臥薪 là nằm trên củi = nằm trên khấp khểnh, nó ép làm đau thân người ngủ, rồi đi đến nghĩa “nằm gai” thì gượng ép. Đại khái, ông VCĐ cho rằng chữ “tân” không có nghĩa là “củi, cỏ gai” mà có nghĩa là “cay” hoặc “bờ, bến”.
Vậy, xin chuyên mục “Cà kê chuyện chữ nghĩa” cho biết ý kiến.
Trân trọng cảm ơn”.
Trả lời:
Chúng tôi xin lần lượt trả lời những thắc mắc của độc giả Minh Văn như sau:
1-Tất cả các tài liệu, thư tịch, từ điển Hán ngữ, cũng như sách điển cố, điển tích, hoặc từ điển tiếng Việt mà chúng tôi tham khảo đều thống nhất giảng “Nằm gai nếm mật” là xuất phát từ câu chuyện Việt vương Câu Tiễn tự chịu đựng khổ nhục để nuôi chí báo thù. Ngoài ra, chúng tôi không tìm thấy bất cứ một dị bản nào khác.
2-Về nghĩa của chữ “tân” trong “Ngọa tân thường đảm” có phải là “cỏ” hay “cỏ gai” hay không, thì đây, Hán điển giải thích rõ ràng chữ “tân” có nghĩa là “sài thảo”. Mà “sài thảo” là gì?, Hán ngữ đại từ điển giảng: “sài thảo” là “dụng tác nhiên liệu đích thụ chi, tiểu mộc hòa tạp thảo đẳng. Diệc chỉ trang giá đích hành, diệp”, nghĩa là: 1. Chỉ các cành cây, cây nhỏ, các loại cỏ tạp dùng làm nhiên liệu đun nấu; 2. Các loại phụ phẩm, phế phẩm như cành nhánh, thân cây, rơm rác của nhà nông sau khi thu hoạch,...
Bản thân chữ “tân” 薪 vừa có nghĩa là “củi”, vừa có nghĩa là “cỏ” như chính Hán Việt tự điển đã ghi nhận. Điều này dễ hiểu vì củi được hiểu với nghĩa rộng là nhiên liệu đun nấu thì nó bao gồm rất nhiều thứ, trong đó có cả cành cây lẫn các loại cây thân thảo, các loại cây gai mọc thành bụi, chứ không dứt khoát phải là cây thân gỗ. Theo đây, Việt vương Câu Tiễn đã dùng các loại cành nhánh lởm chởm gai góc, các loại cọng cỏ, rơm rác tạp nham trải xuống làm đệm ngủ, khiến gai góc của nó làm cho giấc ngủ không được yên, đặng luôn nhớ đến nỗi nhục bại trận mà quyết chí báo thù.
Cũng cần nói thêm, là tất cả các tranh minh họa tích truyện “Nằm gai nếm mật” của Trung Quốc đều vẽ Việt vương Câu Tiễn nằm/ngồi lên cái nệm có những cành nhánh củi khô gồ ghề lởm chởm, cỏ gai xù xì.
3- Viết ngày xưa “thầy đọc và viết chữ mẫu cho học trò cũng từ sách chữ Hán, nhưng theo cách hiểu của thầy [...] còn trò thì lại “vọng âm đoán chữ” [nghĩa] chứ cũng thường không có sách giáo khoa. Thầy - trò mỗi người xê dịch một chút, câu Ngọa tân thường đảm - 臥薪嘗膽 dần chuyển thành ngọa tân 臥辛 [hoặc tân 津]嘗膽”, là hoàn toàn không có cơ sở.
Xưa kia học trò được được thầy chữ Nho dạy rất kĩ. Đặc biệt là các điển cố, điển tích trong kinh sách thì thầy cắt nghĩa từng chữ. Bởi vì với lối văn chuộng tầm chương trích cú, thì một bài thơ, bài văn có được đánh giá tốt hay không, phụ thuộc rất nhiều vào việc tác giả của nó vận dụng được nhiều điển cố điển tích đến đâu. Chuyện nghe đọc để đoán chữ khi đọc “ám tả” thì trò có thể chép sai, nhưng sau đó, thầy học vẫn phải giảng nghĩa từng câu, từng chữ một. Bởi vậy, nói là do học trò đoán sai ý thầy mà chép sai câu thành ngữ, thì đó là điều nực cười.
Bởi thế, câu “Thường đảm ngọa tân giả cái phi nhất nhật - 嘗膽臥薪者蓋非一日 (Nếm mật nằm gai há phải một hai sớm tối), mà chúng tôi dẫn ra trong bài trước, thì chữ “tân” Nguyễn Trãi dùng chính là chữ tân 薪 có nghĩa là củi, cỏ gai, chứ không phải là chữ tân 辛là cay hoặc tân 津 có nghĩa là bến, bờ. Theo đây, không có cơ sở nào cho suy diễn “Nằm cay nếm đắng”, “Nằm bờ ngủ bụi” như ông VĐC viết.
Tóm lại, chữ “tân” 薪 trong điển tích của thành ngữ “Ngọa tân thường đảm”, gắn với nhân vật Việt vương Câu Tiễn, có nghĩa là củi khô, cỏ gai lởm chởm. Điều này đã được sách vở, thư tịch cổ ghi chép cụ thể bằng giấy trắng mực đen, sáng rõ như ban ngày. Không ai bỗng dưng suy diễn, gán ghép, thay thế chữ nọ chữ kia vào rồi đoán mò kiểu thầy bói xem voi. Đó là một kiểu dĩ hư truyền hư, rất dễ gây ngộ nhận, sai lầm cho độc giả, đặc biệt là những người không có khả năng tra cứu, kiểm chứng.