Làm kinh tế miền núi: Đừng áp đặt tư duy 'máy gặt chạy thẳng cánh cò bay'

Theo đại biểu, miền núi không có cánh đồng rộng bát ngát, không có những chiếc máy gặt chạy thẳng cánh cò bay. Nếu cố áp dụng tư duy 'sản xuất càng nhiều càng tốt' như ở đồng bằng, miền núi sẽ luôn ở thế bất lợi.

Sáng 5-12, Quốc hội thảo luận ở hội trường về chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia về nông thôn mới, giảm nghèo bền vững, phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi đến năm 2035.

Phát biểu tại hội trường, nhiều đại biểu Quốc hội bày tỏ sự thống nhất và ủng hộ cao việc Quốc hội xem xét ban hành nghị quyết. "Đây là chủ trương lớn, mang ý nghĩa chiến lược, thể hiện nhất quán quan điểm của Đảng và Nhà nước về ưu tiên phát triển khu vực nông thôn và vùng đồng bào dân tộc thiểu số, thu hẹp khoảng cách vùng miền và bảo đảm cơ hội phát triển đồng đều cho mọi người dân", đại biểu Đỗ Văn Yên (TP.HCM) đánh giá.

 Đại biểu Phạm Văn Hòa (Đồng Tháp)

Đại biểu Phạm Văn Hòa (Đồng Tháp)

Sản xuất hàng hóa ở miền núi không phải đoàn xe container nối dài

Góp ý để dự thảo nghị quyết hoàn thiện hơn, đại biểu Phạm Văn Hòa (Đồng Tháp) băn khoăn về mục tiêu phải đạt 40% lao động người dân tộc thiểu số làm trong công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ, du lịch; 80% hộ đồng bào dân tộc thiểu số tham gia sản xuất nông – lâm nghiệp hàng hóa.

Đại biểu cho rằng những con số này chưa sát thực tiễn, nhất là khi điều kiện sản xuất miền núi còn rất khác biệt so với đồng bằng.

Ông dẫn lại quan điểm của một chuyên gia đầu ngành nông nghiệp: Miền núi không có cánh đồng rộng bát ngát, không có những chiếc máy gặt chạy thẳng cánh cò bay, đất đai phân tán, dốc núi, chia nhỏ, manh mún. Nếu cố áp dụng tư duy sản xuất càng nhiều càng tốt như ở đồng bằng, miền núi sẽ luôn ở thế bất lợi.

Sản xuất hàng hóa ở miền núi không phải là đoàn xe container nối dài, mà là những sản phẩm nhỏ, tinh túy, rất quý giá. Khách du lịch đến miền núi không chỉ mua sắm sản phẩm mà còn để trải nghiệm. Họ lắng nghe tiếng suối, ngửi mùi khói bếp, nếm mùi rượu ngô…

Vì vậy, theo đại biểu Phạm Văn Hòa, nông sản miền núi không chỉ là hàng hóa, mà còn là câu chuyện, là dấu ấn của một cộng đồng bà con dân tộc. Khi gắn nông sản với du lịch trải nghiệm, sản phẩm trở thành kỷ niệm, bản sắc trở thành giá trị gia tăng.

Từ thực tế này, đại biểu đề nghị cần định nghĩa lại khái niệm "sản xuất hàng hóa".

Ông nêu ví dụ bà con đi chợ phiên, cắp nách một con lợn, vài con gà mang xuống chợ – đó có phải là hàng hóa không? Thực tế, đây là mô hình phổ biến ở vùng cao, nơi nương rẫy chỉ vài ba sào, hoàn toàn khác với đồng bằng.

"Vì vậy, chỉ tiêu 80% hộ làm nông – lâm nghiệp hàng hóa theo tôi chưa phù hợp với điều kiện thực tế của đồng bào dân tộc thiểu số", đại biểu nhấn mạnh.

Chuyển từ tiếp cận 'đếm tiêu chí' sang 'đánh giá thực chất'

Đồng tình với báo cáo thẩm tra, đại biểu Hà Sỹ Đồng (Quảng Trị) cũng cho rằng hồ sơ hợp nhất ba chương trình mục tiêu đã khắc phục phân tán nguồn lực, chồng chéo chính sách và nhiều đầu mối. Tuy nhiên, việc này cũng để lại nhiều vấn đề phải xử lý để chương trình giai đoạn mới thực sự có trọng tâm, trọng điểm và khả thi.

Trước hết, về mục tiêu, theo ông, các chỉ tiêu tổng quát và cụ thể còn thiếu cơ sở thực tiễn, chưa được lượng hóa đầy đủ, chưa phản ánh rõ điều kiện mới của chính quyền địa phương hai cấp và thực trạng sinh kế, hạ tầng, nguồn lực đồng bào dân tộc thiểu số.

 Đại biểu Hà Sỹ Đồng (Quảng Trị)

Đại biểu Hà Sỹ Đồng (Quảng Trị)

Báo cáo thẩm tra cũng chỉ ra nhiều chỉ tiêu còn mang tính khẩu hiệu, khó đo lường, như chỉ tiêu về lao động biết nghề, thu nhập, hay tỉ lệ xã đạt chuẩn nông thôn mới thấp hơn cả mục tiêu Quốc hội đã đặt ra cho giai đoạn trước.

"Tôi đề nghị rà soát lại toàn bộ hệ thống chỉ tiêu theo hướng rõ cơ sở chính trị – pháp lý – thực tiễn; đo lường được; phản ánh đúng đặc thù vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi; chuyển từ tiếp cận đếm tiêu chí sang đánh giá kết quả thực chất", ông nhấn mạnh.

Về vốn và cơ cấu nguồn lực, đại biểu đoàn Quảng Trị đề nghị xác định lại tỉ lệ đối ứng phù hợp, đặc biệt với các tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa – nơi thậm chí 10% đối ứng cũng là thách thức. Đồng thời, cần quy định nguyên tắc phân bổ rõ ràng: ít nhất 70% vốn ngân sách trung ương phải ưu tiên cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, trong đó tối thiểu 40% cho địa bàn đặc biệt khó khăn, bảo đảm đầu tư đúng vùng lõi nghèo, đúng trọng tâm.

NHÓM PHÓNG VIÊN

Nguồn PLO: https://plo.vn/lam-kinh-te-mien-nui-dung-ap-dat-tu-duy-may-gat-chay-thang-canh-co-bay-post884999.html