Làm rõ hiệu quả kinh tế trong vận hành đường sắt tốc độ cao
Ngày 26/3, Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà chủ trì Phiên họp thứ hai Ban Chỉ đạo xây dựng, thực hiện đề án chủ trương đầu tư đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam và các dự án đường sắt quan trọng quốc gia.
Theo báo cáo của Bộ Giao thông vận tải (GTVT), tuyến đường sắt tốc độ cao với tốc độ thiết kế 350km/giờ, vận tải hành khách và vận tải hàng hóa khi có nhu cầu. Tuyến đường sắt hiện hữu sẽ chuyển sang phục vụ vận tải hàng hóa.
Thời gian qua, Bộ GTVT đã phối hợp với Tổng cục Thống kê (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) đánh giá tác động của dự án Đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam đến nền kinh tế cho thấy, dự án có thể đóng góp khoảng 1 điểm phần trăm (%) tăng trưởng GDP/năm trong giai đoạn 2025 - 2037. Bộ GTVT và các cơ quan liên quan đã rà soát, cập nhật hoàn thiện phương án huy động nguồn vốn, đánh giá tác động nợ công; đề án phát triển nguồn nhân lực; định hướng phát triển công nghiệp đường sắt…
Bên cạnh việc thực hiện cải tạo, nâng cấp để khai thác hiệu quả các tuyến đường sắt hiện có, Bộ GTVT đang giao Ban Quản lý dự án đường sắt chuẩn bị đầu tư các dự án thuộc tiêu chí dự án quan trọng quốc gia: tuyến Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng nằm trên hành lang kinh tế Đông - Tây; Ngọc Hồi (Thanh Trì, Hà Nội) - Thạch Lỗi (Đông Anh, Hà Nội) kết nối các tuyến đường sắt đi phía Nam và phía Bắc Thủ đô Hà Nội; TP Hồ Chí Minh - Cần Thơ kết nối TP Hồ Chí Minh với các tỉnh miền Tây Nam Bộ; Thủ Thiêm - Long Thành kết nối TP Hồ Chí Minh với Cảng hàng không Long Thành; Biên Hòa - Vũng Tàu kết nối các tỉnh Đông Nam Bộ với TP Hồ Chí Minh, cảng biển khu vực Cái Mép - Thị Vải.
Về khó khăn, vướng mắc, Thứ trưởng Bộ GTVT Nguyễn Danh Huy cho biết, các dự án đường sắt quan trọng quốc gia có quy mô lớn, tiêu chuẩn kỹ thuật phức tạp, đi qua nhiều địa phương nên cần xem xét cẩn trọng, kỹ lưỡng, công tác chuẩn bị đầu tư mất nhiều thời gian, cần sự phối hợp chặt chẽ của các Bộ, ngành, địa phương. Các dự án đường sắt mang lại hiệu quả lớn về mặt kinh tế nhưng hiệu quả tài chính dự án chưa cao nên ngân sách nhà nước cần giữ vai trò chủ đạo và ưu tiên bố trí nguồn lực để đầu tư. Công nghiệp đường sắt chưa sản xuất được phương tiện, thiết bị, linh kiện, phụ tùng cho đường sắt nói chung. Nguồn nhân lực chưa tiếp cận với trình độ quản lý, kỹ thuật tiên tiến; thiếu chuyên gia về đường sắt...
Phát biểu tại Phiên họp, GS.TS Lã Ngọc Khuê, nguyên Thứ trưởng Bộ GTVT cho biết, ngoài mục tiêu vận tải hành khách, tuyến đường sắt tốc độ cao phải giải quyết được “điểm nghẽn” vận tải hàng hóa bằng đường sắt của Việt Nam, nhằm thay đổi cơ cấu của thị phần vận tải, có như vậy mới giảm chi phí logistics và dứt khoát phải liên thông với các tuyến đường sắt quốc tế. Mặc dù vận tải đường thủy nội địa, đường biển có ưu thế về chi phí nhưng thời gian kéo dài, bốc dỡ nhiều lần. Vì vậy, đây là cơ hội rất lớn để ngành đường sắt giành lại thị phần vận tải hàng hóa đường dài, nâng cao năng lực cạnh tranh cho nền kinh tế.
Phát biểu tại Phiên họp, Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà nhấn mạnh, một quốc gia công nghiệp hóa, hiện đại hóa cần phát triển đường sắt tốc độ cao để giảm chi phí logistics, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, trong xu thế chuyển đổi xanh hiện nay. Phó Thủ tướng yêu cầu Bộ GTVT tiếp thu, giải trình, làm rõ các ý kiến được nêu tại Phiên họp và lưu ý: “Phải giữ lại các nhà ga trung tâm ở các đô thị lớn mang tính biểu tượng, đồng thời bảo đảm hành lang an toàn bằng cách kết hợp với tuyến đi trên cao, đi ngầm”.
Bên cạnh đó, Bộ GTVT phải làm rõ hiệu quả kinh tế, kinh nghiệm trên thế giới trong vận hành đường sắt tốc độ cao kết hợp vận tải hành khách với hàng hóa; phương án huy động nguồn vốn, phân kỳ đầu tư. Cùng với đó, làm rõ mô hình tổ chức bộ máy quản lý, vận hành đồng bộ, thống nhất; phương án tiếp nhận, chuyển giao kỹ thuật, công nghệ tiến tới làm chủ và xây dựng ngành công nghiệp đường sắt trong nước…